Cơ hội và thách thức


(CHG) Việt Nam là quốc gia có đường bờ biển dài trên 3.200km và bức xạ nhiệt cao nên có nhiều lợi thế để phát triển ngành muối. Sản xuất muối tại Việt Nam là một nghề truyền thống, có từ lâu đời, là ngành sản xuất có tầm quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của đất nước. Nhu cầu muối đang tăng, nhưng sản xuất muối lại chưa đáp ứng yêu cầu…
Cánh đồng muối tại Bạc Liêu. Ảnh: Internet
Những lợi thế của ngành muối Việt Nam
Cả nước hiện có 19 tỉnh, thành phố, gồm 40 huyện, 79 xã có nghề sản xuất muối. Theo quy hoạch, tổng diện tích muối là 12.654ha, nhưng thực tế sản xuất hiện nay chỉ là 11.978ha, còn lại khoảng 667ha (chiếm 5,27%) không được sản xuất do diêm dân bỏ hoang ruộng muối, hoặc đã chuyển đổi sang nuôi trồng thuỷ sản, trồng rau màu. Sản lượng muối bình quân mỗi năm đạt trên 1 triệu tấn. 
Cả nước hiện có khoảng 13.743 hộ sản xuất muối (diện tích đất sản xuất muối bình quân/hộ là 0,44ha/hộ). Tổng số lao động tham gia sản xuất muối khoảng 32.099 lao động. Tuy nhiên, lao động sản xuất muối hiện phần lớn là người già, phụ nữ ở địa phương. Hoạt động sản xuất muối đa phần là dựa trên kinh nghiệm làm muối truyền thống. 
Hiện nay, quy trình sản xuất muối được áp dụng theo 3 phương thức chính: 
Thứ nhất, đa số áp dụng hình thức phơi cát truyền thống. Điển hình là Thái Bình, Nam Định, Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh. Thời vụ sản xuất từ tháng 5 - 12 hằng năm. Diện tích sản xuất muối phơi cát khoảng 1.026ha, chiếm 8,6% diện tích sản xuất muối cả nước. Sản lượng muối từ 100 - 120 nghìn tấn/năm.
Thứ hai, từ Quảng Bình trở vào đến Cà Mau, áp dụng hình thức phơi nước phân tán. Thời vụ sản xuất muối trong năm từ tháng 8 - 12. Diện tích sản xuất muối phơi nước phân tán là 1.408ha, chiếm 61,8% diện tích sản xuất muối cả nước (trong đó khoảng 516ha ô kết tinh muối). Sản lượng muối từ 400 - 500 nghìn tấn/năm. 
Thứ ba, ở các tỉnh Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận, áp dụng hình thức phơi nước tập trung quy mô công nghiệp. Diện tích sản xuất khoảng 3.552ha, chiếm 29,6% diện tích sản xuất muối cả nước. Sản lượng muối trung bình từ 250 - 350 nghìn tấn/năm.
Công nghiệp chế biến muối cũng đã phát triển với 72 cơ sở thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia sản xuất muối tinh, muối trộn i-ốt, muối sạch xuất khẩu. Nhìn chung sản phẩm muối của các doanh nghiệp chế biến đa dạng, phong phú, đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng và một phần cho xuất khẩu. 
Sản phẩm muối hiện nay được chia thành 4 nhóm chính là muối thô, muối tinh, muối thực phẩm và muối công nghiệp.
Muối chế biến công nghiệp gồm muối thực phẩm, muối tinh, được dùng để ăn trực tiếp, dùng làm chất điều vị trong chế biến thực phẩm như bột dinh dưỡng, sữa bột, cà phê hoà tan, hạt nêm, mì chính, nước chấm… Ngoài ra, muối tinh còn được dùng trong chế biến thức ăn chăn nuôi. Muối thô được dùng trong chế biến nước mắm từ cá và trong xử lý môi trường, các ngành công nghiệp khác.

Thị trường muối có nhiều vùng trắng
Hiện nay, muối do các hộ diêm dân sản xuất ra được tiêu thụ theo 3 kênh chính. Đầu tiên là doanh nghiệp sản xuất chế biến muối tiêu thụ 34,4% tổng sản lượng muối, thông qua hoạt động chế biến muối của doanh nghiệp, đang là nguồn đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng ăn trực tiếp và công nghiệp chế biến thực phẩm.
Thứ hai, là các hợp tác xã muối tiêu thụ 6,5% tổng sản lượng muối, thông qua liên kết với doanh nghiệp chế biến muối để tiêu thụ cho các thành viên hợp tác xã. Thứ ba, là tư thương, bán lẻ tiêu thụ 60% tổng sản lượng muối.
Bên cạnh đó, một số địa phương đã đưa được sản phẩm muối vào các kênh siêu thị như BigC, Copmak, Vinmart… Nhiều địa phương đã xây dựng được thương hiệu và chỉ dẫn địa lý, phát triển sản phẩm muối OCOP gồm: Sản phẩm muối tinh của Công ty CP Muối và thương mại Bạc Liêu đạt OCOP 4 sao; sản phẩm muối Đề Gi của tỉnh Bình Định đã được xác lập quyền sở hữu công nghiệp dưới hình thức nhãn hiệu chứng nhận gắn với địa danh “Đề Gi”; muối tre Kosal của Quảng Bình đạt OCOP 3 sao; nhãn hiệu tập thể “Muối Sa Huỳnh”; nhãn hiệu chứng nhận “Muối Bà Rịa” của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; nhãn hiệu chứng nhận “Muối Tuyết Diêm” tỉnh Phú Yên...
Về xuất nhập khẩu muối, theo phân tích của các chuyên gia kinh tế, lượng muối nhập khẩu của nước ta từ 2017 - 2020 đạt trung bình khoảng 500 nghìn tấn/năm. Muối nhập khẩu chủ yếu là muối công nghiệp phục vụ sản xuất hoá chất. Ngoài ra, một lượng nhỏ muối tinh, muối thực phẩm được nhập khẩu phục vụ y tế, xử lý môi trường và các ngành công nghiệp khác. 
Theo quy định của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Việt Nam phải áp dụng cơ chế quản lý nhập khẩu theo hạn ngạch thuế quan đối với một số nông sản, trong đó có mặt hàng muối. Sau thời hạn hết hiệu lực của hạn ngạch thuế quan, việc Nhà nước tiếp tục có cơ chế, chính sách bảo hộ sản xuất muối là không thể, do các cam kết khi gia nhập WTO.
Năm 2022, hạn ngạch thuế quan đối với mặt hàng muối là 80.000 tấn. Năm 2023, dự kiến là 84.000 tấn. Thực tế, số lượng muối được cấp phép nhập khẩu có thể thấp hơn so với hạn ngạch. Đây cũng chính là nỗ lực của Nhà nước để bảo vệ ngành muối sản xuất trong nước, đảm bảo và nâng cao thu nhập cho diêm dân.
Mặt khác, trong nhiều năm qua, hoạt động sản xuất khai thác và tinh chế muối luôn nằm trong nhóm những ngành nghề đặc biệt, được ưu đãi đầu tư. Vì vậy, vấn đề cấp bách đặt ra cho ngành Muối là phải sớm thực hiện tái cơ cấu theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, phát triển bền vững để đáp ứng nhu cầu ngày một tăng của thị trường nội địa, nhất là nhu cầu muối dùng cho công nghiệp hóa chất.   
Muốn vậy, ngành muối cần mở rộng quy mô đồng muối công nghiệp với năng suất, chất lượng cao, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật nâng cao năng suất, chất lượng muối của diêm dân, tạo nguồn nguyên liệu ổn định cho nhu cầu chế biến trong nước và nhu cầu công nghiệp.
Về xuất khẩu, sản phẩm muối sạch của Việt Nam đã được xuất khẩu sang thị trường các quốc gia như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc… nhưng số lượng còn rất “khiêm tốn”, chỉ được khoảng 20 - 40 nghìn tấn muối sạch mỗi năm.
Thực trạng của hoạt động sản xuất muối cho thấy vẫn còn nhiều điểm khó khăn để phát triển toàn diện. Ngành Muối cần có hướng đi đúng đắn để đáp ứng được nhu cầu cho quốc gia, cũng như khôi phục lại giá trị của làng nghề muối truyền thống nhằm bảo đảm tiêu dùng ngay tại thị trường trong nước./.
(Còn nữa)
Còn lại: 1000 ký tự
Hội tụ về Quảng Ninh, lan tỏa từ Quảng Ninh

​(CHG) “Quảng Ninh hội tụ và lan toả” đã trở thành chỉ dẫn để sau hơn 1 thập kỷ Quảng Ninh vươn lên, đã và đang trở thành một trong những tỉnh đi đầu trong công cuộc đổi mới sáng tạo của vùng đồng bằng Bắc Bộ, một cực tăng trưởng của khu vực phía Bắc.

Xem chi tiết
Trao tặng Bằng khen của Chủ tịch UBND tỉnh cho ngư dân dũng cảm cứu người bị nạn trên biển do giông lốc

(CHG) Ngày 7/5, thừa uỷ quyền của UBND tỉnh, UBND huyện Cô Tô đã tổ chức trao thưởng đột xuất Bằng khen của Chủ tịch UBND tỉnh cho 01 ngư dân có hành động dũng cảm cứu người bị nạn trên biển do giông lốc xảy ra vào đêm ngày 20/4/2024.

Xem chi tiết
Quảng Ninh hướng tới thành trung tâm du lịch quốc tế và kinh tế

​(CHG) Mục tiêu đến năm 2050, Quảng Ninh trở thành một trong những trung tâm du lịch kết nối toàn cầu, điểm đến hàng đầu thế giới dựa trên định vị thương hiệu vịnh Hạ Long - vịnh Bái Tử Long là thiên đường cảnh quan và sự phát triển hài hòa giữa các hệ sinh thái kinh tế - xã hội - môi trường với chất lượng cuộc sống của người dân và môi sinh đạt chuẩn quốc tế.

Xem chi tiết
Công bố Chỉ số Cải cách hành chính năm 2023: Quảng Ninh tiếp tục đứng đầu

(CHG) Chỉ số hài lòng về sự phục vụ hành chính (SIPAS) năm 2023 trung bình cả nước là 82,66%, tăng 2,58% so với năm 2022 (80,08%). Tỉnh cao nhất là Quảng Ninh, đạt 90,61%, tỉnh thấp nhất là Bắc Cạn, đạt 75,03%..

Xem chi tiết
Tuyển sinh, đào tạo tại Trường Cao đẳng – Kỹ thuật Vĩnh Phúc: Bám sát yêu cầu của doanh ngiệp và nhu cầu xã hội

(CHG) Quá trình tuyển sinh, đào tạo, Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Vĩnh Phúc luôn tìm hiểu, bám sát nhu cầu thị trường lao động và việc làm, tăng cường gắn kết với doanh nghiệp. Qua đó, học viên sớm làm quen với môi trường làm việc thực tế, phát triển toàn diện kỹ năng nghề, doanh nghiệp không phải đào tạo lại, nhà trường cũng ngày càng hoàn thiện chương trình đào tạo...

Xem chi tiết
2
2
2
3