TÓM TẮT:
Bài viết xác định 7 yếu tố ảnh hưởng tới ý định chia sẻ tri thức, từ đó ảnh hưởng tới hành vi chia sẻ tri thức của sinh viên các trường đại học khối kinh tế tại Hà Nội, bao gồm: Sự hỗ trợ của nhà trường; Sự hỗ trợ của giảng viên; Môi trường vật lý; Niềm vui trong giúp đỡ người khác; Tự tin vào năng lực bản thân; Niềm tin và nhận thức của bản thân; Nhân tố về công nghệ. Nghiên cứu được thực hiện với 434 phiếu khảo sát với sinh viên từ 11 trường đại học khối kinh tế tại Hà Nội từ tháng 8/2023 đến hết tháng 1/2024. Từ đó, đề xuất một số giải pháp hỗ trợ các trường có thể gia tăng khả năng thực hiện hoạt động này trong tương lai.
Từ khóa: quản trị tri thức, chia sẻ tri thức, sinh viên.
Sự ra đời của Internet và mạng toàn cầu đã cho phép mọi người tiếp cận với nguồn tri thức không giới hạn, điều này đã thay đổi cách mọi người suy nghĩ, làm việc và sản xuất xã hội. Yếu tố tri thức là một trong những yếu tố nổi lên cùng với xu thế này và có vai trò quan trọng trong sản xuất. Nó cũng hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển theo chiều sâu. Nền kinh tế được thúc đẩy bởi tri thức. Các ngành nghề, lĩnh vực của một quốc gia phát triển nhờ tri thức, từ sản xuất và kinh doanh đến y tế và giáo dục. Tri thức chính là yếu tố góp phần tác động tới sự phát triển và khả năng trong lĩnh vực giáo dục.
Lĩnh vực giáo dục những năm qua đã và đang thực hiện việc chuyển đổi quá trình đào tạo sang tự đào tạo. Điều đó đòi hỏi các trường không chỉ quan tâm đến nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên để nâng cao chất lượng đào tạo, mà còn quan tâm đến sự tham gia tích cực của người học. Lợi thế cạnh tranh của các trường đại học hiện đại là họ có thể đào tạo được những thế hệ người học có kiến thức, kỹ năng và đảm bảo chất lượng học tập của mình. Từ nguồn nhân lực được đào tạo có chất lượng, với kỹ năng, kinh nghiệm, phương pháp tư duy và phương pháp giải quyết vấn đề sẽ là nguồn nhân lực có chất lượng có thể tạo lợi thế cạnh tranh cho các doanh nghiệp và thúc đẩy quốc gia phát triển, đặc biệt theo định hướng bền vững.
Chia sẻ tri thức cải thiện hiệu suất, mở rộng mạng lưới và không gian mở, khuyến khích sự đổi mới và hợp tác hơn trong công việc, v.v. Việc sinh viên được khuyến khích chia sẻ tri thức sẽ thúc đẩy văn hóa trao đổi, khuyến khích sự sáng tạo, đổi mới và phát triển cá nhân, cũng như thúc đẩy dòng tri thức thông suốt và sự chủ động trong việc tiếp cận kiến thức và kỹ năng mới. Có thể thấy vai trò của hoạt động chia sẻ tri thức trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo, đặc biệt gắn với đối tượng là sinh viên là vô cùng quan trọng. Vì vậy, bài viết tập trung đề xuất mô hình nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến chia sẻ tri thức trong sinh viên. Kết quả nghiên cứu này giúp xác định được những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến động lực, khả năng và kết quả chia sẻ tri thức của sinh viên trong học tâp và nghiên cứu, từ đó đề xuất một số giải pháp để giúp các trường đại học, đặc biệt các trường đại học thuộc khối kinh tế có thể thúc đẩy khả năng chía sẻ tri thức trong sinh viên. Đồng thời, các trường nhanh chóng chuyển quá trình đào tạo sang tự đào tạo, giảm bớt gánh nặng đào tạo từ nhà trường, cải thiện chất lượng học tập của người học và nâng cao chất lượng đào tạo của các trường.
Tri thức là một thuật ngữ khó để xác định, cũng như đo lường. Tri thức thường được hiểu là sự phức tạp và không chắc chắn. Nó có mức độ trừu tượng cao hơn trong tâm trí con người. Khi tiếp cận tới thuật ngữ “tri thức”, có nhiều cách để định nghĩa cụm từ này. Theo Tiwana (2000), tri thức được định nghĩa như là “thông tin có thể hành động (có liên quan) có sẵn theo đúng định dạng, vào đúng thời điểm và ở đúng nơi để ra quyết định”. Nonaka và Takuchi (1995) đã khái niệm tri thức là “một quá trình năng động của con người để chứng minh niềm tin cá nhân đối với sự thật”, hay “tri thức là sự hiểu biết của con người về một lĩnh vực quan tâm cụ thể đã được thu nhận thông qua nghiên cứu và kinh nghiệm”. Từ các khái niệm, định nghĩa về tri thức của các nhà nghiên cứu, học giả trên thế giới, nhìn chung, tri thức có thể được hiểu một cách đơn giản đó là “một hỗn hợp của kinh nghiệm, giá trị, thông tin theo bối cảnh, chuyên môn sâu sắc và trực giác cơ bản cung cấp môi trường và khuôn khổ để đánh giá và kết hợp những kinh nghiệm và thông tin mới”.
Chia sẻ tri thức có thể được tiếp cận, khái niệm theo nhiều cách khác nhau tùy thuộc vào bối cảnh và điều kiện, cũng như quan điểm khác nhau. Qua quá trình nghiên cứu, có nhiều định nghĩa được đưa ra để cụ thể hóa cho thuật ngữ chia sẻ tri thức. Theo Wang (1999), chia sẻ tri thức là sự chuyển đổi từ tri thức ẩn thành tri thức hiện với sự chuyển giao giữa cá nhân và tổ chức và ngược lại. Theo Lee (2001) thì chia sẻ tri thức là các hoạt động chuyển giao hoặc phân phối tri thức ẩn và hiện giữa các cá nhân, nhóm, hay tổ chức. Hay theo Demirel và Seckin (2011), chia sẻ tri thức là một trong những yếu tố cần thiết, quan trọng và hiệu quả để tổ chức có thể đạt được các mục tiêu của mình. Với đa dạng khái niệm liên quan tới chia sẻ tri thức, có thể thấy có nhiều cách tiếp cận tới thuật ngữ này. Điển hình trong đó, khi đề cập tới quản trị tri thức, các học giả thường đề cập tới hoạt động chia sẻ tri thức.
Cũng trong các nghiên cứu trước đây, có nhiều học giả, nhà nghiên cứu đã xem xét các yếu tố ảnh hưởng tới chia sẻ tri thức. Mô hình nghiên cứu nhóm tác giả đề xuất 7 yếu tố tác động tới ý định chia sẻ tri thức, từ đó hình thành hành vi chia sẻ tri thức của sinh viên: sự hỗ trợ của nhà trường, sự hỗ trợ của giảng viên, môi trường vật lý, sự thích thú trong việc giúp đỡ người khác, tự tin vào năng lực bản thân, niềm tin và nhận thức của bản thân, nhân tố về công nghệ. Những yếu tố này được xây dựng dựa trên cơ sở lý luận từ các nghiên cứu trước, sau đó, 8 giả thuyết được phát triển:
H1: Ý định chia sẻ tri thức sẽ có ảnh hưởng đến hành vi chia sẻ tri thức.
H2: Sự hỗ trợ của nhà trường có ảnh hưởng đến ý định chia sẻ tri thức của sinh viên.
H3: Sự hỗ trợ của giảng viên có ảnh hưởng đến ý định chia sẻ tri thức của sinh viên.
H4: Môi trường vật lý có ảnh hưởng đến ý định chia sẻ tri thức của sinh viên.
H5: Sinh viên thấy niềm vui trong việc giúp đỡ người khác có ảnh đến ý định chia sẻ tri thức của sinh viên.
H6: Tự tin vào năng lực của bản thân sinh viên có ảnh hưởng đến ý định chia sẻ tri thức của sinh viên.
H7: Niềm tin và nhận thức cá nhân của sinh viên có ảnh hưởng đến ý định chia sẻ tri thức của sinh viên.
H8: Yếu tố thuộc về công nghệ có ảnh hưởng đến ý định chia sẻ tri thức của sinh viên.
Nghiên cứu của các tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu hỗn hợp giữa định tính và định lượng qua hai giai đoạn: nghiên cứu sơ bộ và nghiên cứu chính thức. Dựa trên việc tổng quan các nghiên cứu có liên quan để hệ thống các vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động chia sẻ tri thức. Đồng thời, trên cơ sở tổng quan nghiên cứu, các tác giả thực hiện thảo luận nhóm và lấy phỏng vấn sâu chuyên gia, qua đó xây dựng một mô hình lý thuyết theo cách tiếp cận phù hợp với mục tiêu nghiên cứu và đặt ra các giả thuyết nghiên cứu.
Giai đoạn nghiên cứu chính thức được thực hiện với công cụ đo lường sử dụng thang đo Likert 5 mức độ, kế thừa từ các nghiên cứu điển hình trước đây với 57 thang đo đo lường 7 yếu tố độc lập và 2 yếu tố biến phụ thuộc. Theo Hair và cộng sự (1998), số lượng khảo sát tối thiểu cần thiết để phục vụ phân tích nhân tố khám phá EFA là N = 5 x số biến quan sát. Theo đó, với nghiên cứu này, kích cỡ quan sát lớn hơn đảm bảo độ tin cậy tốt hơn. Nghiên cứu chính thức được thực hiện với 445 bảng hỏi khảo sát và được thu thập mẫu ngẫu nhiên. Các mẫu khảo sát này được thu thập đầy đủ để đưa vào phân tích chính thức.
Đối tượng khảo sát là sinh viên khối kinh tế hiện đang theo học tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Hà Nội. Thông tin về đặc điểm mẫu cụ thể như trình bày tại Bảng 1.
Bảng 1. Đặc điểm mẫu nghiên cứu
Biến |
Phân loại nhóm |
Tần số |
Tỷ lệ (%) |
Giới tính |
Nam Nữ |
136 298 |
31.3 68.7 |
Năm học |
SV năm thứ nhất SV năm thứ hai SV năm thứ ba SV năm thứ tư |
102 128 114 90 |
23.5 29.5 26.3 20.7 |
Trường |
Đại học Thương mại Đại học Kinh tế - ĐHQGHN Học viện Tài chính Học viện Ngân hàng Đại học Ngoại thương Đại học Dân lập Phương Đông Đại học Tài chính - Ngân hàng Đại học Thành Đô Đại học Thăng Long Đại học Kinh tế - Kỹ thuật Công nghiệp |
131 30 25 20 05 10 21 95 15 20 62 |
30.2 6.9 5.8 4.6 1.2 2.3 4.8 21.9 3.5 4.6 14.3 |
Nguồn: Dữ liệu khảo sát của nhóm tác giả, 2023
Từ kết quả nghiên cứu, các hệ số Cronbach’s Alpha tổng của các biến độc lập và biến phụ thuộc đều trên 0.6, dao động từ 0.603 đến 0.808. Đồng thời, các biến quan sát có hệ số tương quan biến thành phần - biến tổng lớn hơn 0.3. Tất cả các biến quan sát này được tiếp tục sử dụng trong phân tích EFA. (Bảng 2)
Bảng 2. Hệ số độ tin cậy Cronbach’s Alpha
Biến quan sát |
Số biến quan sát |
Hệ số tương quan biến thành phần - biến tổng |
Cronbach’s Alpha |
Sự hỗ trợ của nhà trường |
5 |
0.588 |
0.622 |
Sự hỗ trợ của giảng viên |
5 |
0.773 |
0.690 |
Môi trường vật lý |
4 |
0.734 |
0.647 |
Niềm vui trong việc giúp đỡ người khác |
5 |
0.768 |
0.745 |
Tự tin vào năng lực bản thân |
4 |
0.670 |
0.769 |
Niềm tin và nhận thức của cá nhân |
10 |
0.747 |
0.808 |
Nhân tố về công nghệ |
13 |
0.625 |
0.773 |
Ý định chia sẻ tri thức |
4 |
0.631 |
0.603 |
Hành vi chia sẻ tri thức |
7 |
0.611 |
0.672 |
Nguồn: Dữ liệu phân tích từ khảo sát, 2023
Kết quả phân tích EFA cho các biến độc lập có 7 nhân tố hình thành với 46 biến quan sát đạt yêu cầu. Hệ số KMO = 0.980 (>0.5) nên thỏa mãn điều kiện để phân tích nhân tố. Kiểm định Barlett có ý nghĩa Sig. = 0.000 < 0.05 nên các biến quan sát có sự tương quan với nhau. Giá trị tổng phương sai trích của các nhân tố đạt 67.879% > 50%. Kết quả kiểm định Cronbach’s Alpha và EFA nêu trên cho thấy thang đó các yếu tố độc lập và phụ thuộc đều đạt yêu cầu về giá giá trị và độ tin cậy, phù hợp để tiếp tục nghiên cứu định lượng tiếp theo.
Các hệ số tương quan có ý nghĩa thống kê và có thể được đưa vào phân tích hồi quy vì mức ý nghĩa của chúng rất nhỏ (sig = 0 <0,05). Kiểm tra các giả định vi phạm hồi quy cũng cho thấy kết quả phù hợp.
Bảng 3. Kết quả hồi quy
Giả thuyết |
β chuẩn hóa |
p |
Chấp nhận/bác bỏ |
H1: Ý định chia sẻ tri thức có tác động tích cực tới hành vi chia sẻ tri thức của sinh viên. |
0.194 |
0.000 |
Chấp nhận |
H2: Sự hỗ trợ của nhà trường có tác động tích cực đến ý định chia sẻ tri thức của sinh viên |
0.128 |
0.001 |
Chấp nhận |
H3: Sự hỗ trợ của giảng viên có tác động tích cực đến ý định chia sẻ tri thức của sinh viên |
0.044 |
0.011 |
Chấp nhận |
H4: Môi trường vật lý có tác động tích cực đến ý định chia sẻ tri thức của sinh viên |
0.278 |
0.001 |
Chấp nhận |
H5: Sinh viên thấy niềm vui trong việc giúp đỡ người khác có tác động tích cực đến ý định chia sẻ tri thức của sinh viên |
0.104 |
0.000 |
Chấp nhận |
H6: Tự tin vào năng lực của bản thân sinh viên có tác động tích cực đến ý định chia sẻ tri thức của sinh viên |
0.113 |
0.002 |
Chấp nhận |
H7: Niềm tin và nhận thức cá nhân của sinh viên có tác động tích cực đến ý định chia sẻ tri thức của sinh viên |
0.211 |
0.001 |
Chấp nhận |
H8: Yếu tố thuộc về công nghệ có tác động tích cực đến ý định chia sẻ tri thức của sinh viên |
0.399 |
0.001 |
Chấp nhận |
Nguồn: Kết quả xử lý từ phần mềm AMOS, 2023
Kết quả nghiên cứu cho thấy mức độ ảnh hưởng của các biến là khác nhau. Thứ nhất, ảnh hưởng lớn nhất là “Yếu tố thuộc về công nghệ” với hệ số beta là 0.399; thứ hai là “Môi trường vật lý” với hệ số beta là 0.278, thứ ba là “Niềm tin và nhận thức của sinh viên” với hệ số beta là 0.211; tiếp theo là “Sự hỗ trợ của nhà trường” với hệ số beta là 0.128, “Tự tin vào năng lực của bản thân sinh viên” với hệ số beta là 0.113, “ Sinh viên thấy niềm vui trong việc giúp đỡ người khác” với hệ số beta là 0.104; cuối cùng, có tác động thấp nhất với ý định chia sẻ tri thức là “Sự hỗ trợ của giảng viên” với hệ số beta =0.044. Ngoài ra, ý định chia sẻ tri thức cũng có tác động tích cực tới hành vi chia sẻ tri thức với hệ số beta = 0.194.
Từ kết quả phân tích và nghiên cứu ở trên có thể củng cố thêm lý thuyết của các nghiên cứu trước đây. Đồng thời, nghiên cứu cũng đề xuất một số giải pháp thúc đẩy sau:
Thứ nhất, Nhà trường cần chú trọng tăng cường các hoạt động giáo dục nhằm gia tăng niềm vui trong chia sẻ kiến thức của sinh viên. Theo đó, khi sinh viên được đào tạo nhận thức về tinh thần làm việc, sự tương trợ lẫn nhau trong quá trình học tập, sẽ giúp sinh viên hiểu rõ tầm quan trọng của việc chia sẻ và trao đổi kiến thức, kỹ năng, chuyên môn nhằm hoàn thiện các công việc trao đổi giữa các cá nhân. Đồng thời, tự tin vào năng lực bản thân là yếu tố cốt lõi để sinh viên quyết định có hay không hành vi chia sẻ tri thức. Việc chuẩn hóa các chương trình đào tạo theo hướng tích cực, đổi mới, sáng tạo nhằm nâng cao trình độ, chuyên môn cho sinh viên sẽ giúp sinh viên thêm tự tin vào năng lực của bản thân trong việc xử lý, giải quyết vấn đề, cũng như khả năng cung cấp được chắc chắn hơn các giải pháp, góp ý từ kiến thức của bản thân sinh viên để tăng cường khả năng học tập của sinh viên.
Thứ hai, dành sự công nhận, lời khen cho những sinh viên có đóng góp các sáng kiến, sự hiểu biết của mình cho quá trình học tập của các cá nhân khác, cũng như cho các công việc chung của tập thể nơi các cá nhân tham gia như các thành viên của nhóm. Việc công nhận những đóng góp của sinh viên trong việc chia sẻ kiến thức giúp thúc đẩy niềm tin và sự nhận thức về bản thân của sinh viên. Từ đó gia tăng nhận thức về vai trò của bản thân trong hỗ trợ các sinh viên khác trong quá trình học tập của họ. Thêm nữa, các nhà trường và giảng viên nên tăng cường các hoạt động thảo luận nhóm, trao đổi giữa các sinh viên trong quá trình học tập trên lớp, qua các bài tập nhóm. Đồng thời, các nhà trường và giảng viên cũng nên triển khai những cơ chế, chính sách cộng điểm thưởng, điểm rèn luyện cho sinh viên khi sinh viên có những chia sẻ kiến thức phù hợp, bổ trợ, đóng góp cho các nội dung bài học. Từ đó, thúc đẩy hành vi chia sẻ tri thức trong sinh viên thường xuyên và hiệu quả hơn.
Thứ ba, khuyến khích sinh viên sử dụng công nghệ thông tin để chia sẻ tri thức. Với bối cảnh chuyển đổi số như hiện nay, đồng thời với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin và Internet đã làm thay đổi các cách thức chia sẻ tri thức. Các nhà trường nên có các biện pháp nhằm cung cấp mạng với cơ sở hạ tầng để sinh viên trao đổi tri thức, đồng thời xây dựng các nền tảng mạng trực tuyến để giúp sinh viên trao đổi và chia sẻ kiến thức thuận tiện hơn.
Nghiên cứu mới chỉ lấy mẫu từ một số trường đại học thuộc khối kinh tế trên địa bàn Hà Nội và số mẫu quan sát còn khá hạn chế. Khi nghiên cứu các các trường đại học thuộc khối kinh tế khác được mở rộng với quy mô rộng hơn, độ tin cậy và tính phổ quát sẽ tăng lên. Tất cả các vấn đề trong nghiên cứu này đều được xây dựng dựa trên thang đo định lượng từ các mô hình nghiên cứu trước đây, nên có thể còn có các yếu tố khác có tác động đến hành vi chia sẻ tri thức của sinh viên khối kinh tế các trường đại học trên địa bàn Hà Nội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
Factors influecing the knowledge-sharing intention of university students: Case study of economics students in Hanoi
Master Dao Ngoc Linh1
Ph.D Dang Thu Huong1
Master. Tran Hai Yen1
Master. Dao Thi Nguyet Thanh2
1Department of Quality Control, Faculty of Marketing, Thuongmai University
2Department of Industry and Trade of Quang Binh Province
Abstract:
This study identified seven factors influencing the knowledge-sharing intention of economics students in Hanoi. These factors are the school’s support, the faculty’s support, the physical environment, the joy of helping others, the self-confidence, the self-beliefs and perceptions, and the technological factor. The study conducted 434 surveys with economics students at 11 economic universities in Hanoi from September 2023 to February 2024. Based on the study’s findings, some solutions are proposed to encourage university students to share their knowledge.
Keywords: knowledge management, knowledge sharing, university students.
[Tạp chí Công Thương - Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, Số 5 tháng 3 năm 2024]
Nguồn: Tạp chí công thương
Mô hình nghiên cứu ảnh hưởng của dân trí tài chính số tới quyết định sử dụng các dịch vụ tài chính số của GenZ tại Việt Nam do Nguyễn Quỳnh Anh - Nguyễn Huyền Anh (Trường Đại học Điện lực) thực hiện
Xem chi tiếtNghiên cứu phỏng vấn sự khác nhau về tâm lý khách hàng đối với ý định chuyển đổi sang mua online theo nhóm hàng do TS. Phan Duy Hùng* (Trường Đại học Điện lực) thực hiện
Xem chi tiếtĐề tài Khó khăn và thách thức khi áp dụng giá trị hợp lý trong công tác kế toán của các doanh nghiệp Việt Nam do ThS. Đỗ Ngọc Phương Anh (Khoa Kế toán – Kiểm toán, Học viện Chính sách và Phát triển) thực hiện.
Xem chi tiếtĐề tài Thực trạng tăng trưởng xanh của các doanh nghiệp công nghiệp tại Hà Nội do Phạm Mai Chi 1- Nguyễn Quang Chương1 (1Viện Kinh tế và Quản lý - Trường Đại học Bách khoa Hà Nội ) thực hiện.
Xem chi tiếtBài báo nghiên cứu "Kinh nghiệm về tổ chức bộ máy ngành Hải quan của một số quốc gia" do ThS. Nguyễn Trà My (Trường Đại học Sunderland London Campus, Vương quốc Anh) thực hiện.
Xem chi tiết