Đôn đốc 6 địa phương giải ngân vốn đầu tư công


(CHG) Bộ Tài chính vừa có văn bản gửi UBND 6 tỉnh: Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Điện Biên, Lai Châu, Bình Dương đề nghị đến hết ngày 31/1/2023, những dự án không giải ngân được hết vốn kế hoạch năm 2022 đã giao, không thuộc diện được phép kéo dài theo quy định thực hiện hủy dự toán, hoàn trả ngân sách trung ương.
Đến hết ngày 31/1/2023, dự án không giải ngân được hết vốn kế hoạch năm 2022 đã giao, không thuộc diện được phép kéo dài theo quy định thực hiện hủy dự toán, hoàn trả ngân sách trung ương

Tại công văn của Bộ Tài chính gửi 6 địa phương cho biết, ngày 28/11/2022, Bộ Tài chính đã có Công văn số 12439/BTC-ĐT gửi các địa phương về kiểm tra đôn đốc, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc đẩy mạnh giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công theo Công văn số 963/TTg-KTTH của Thủ tướng Chính phủ và Bộ Tài chính cũng đã có Công văn số 12441/BTC-ĐT ngày 28/11/2022 báo cáo Thủ tướng Chính phủ về kết quả kiểm tra.

Theo báo cáo của các địa phương và báo cáo của Kho bạc Nhà nước, tỷ lệ giải ngân bình quân chung của 6 địa phương trên khi được kiểm tra hồi tháng 10/2022 là 35%, tháng 11/2022 tăng lên 43% (trong đó vốn ngân sách địa phương là 53,4%, vốn ngân sách trung ương là 43,1%), ước giải ngân 13 tháng (đến ngày 31/1/2023) của 2 nguồn vốn này chủ yếu từ 95% đến 100%.

Đối với vốn Chương trình mục tiêu quốc gia, do được trung ương giao vào tháng 5/2022, nên tỷ lệ giải ngân tháng 10 là 1,2%, tháng 11 cũng tăng lên 10,7% kế hoạch (nguồn vốn này được phép kéo dài thời gian thực hiện và giải ngân đến hết ngày 31/12/2023 theo Nghị quyết số 69/2022/QH15 của Quốc hội).

Như vậy, sau khi có công văn kiểm tra đôn đốc, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc đẩy mạnh giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công của Bộ Tài chính gửi các địa phương, công tác giải ngân vốn đầu tư công đã có chuyển biến tích cực. Trong đó, tỉnh Lai Châu là địa phương có chuyển biến cao nhất số giải ngân tăng 13,1% (tháng 10 là 40,1%, tháng 11 tăng lên 53,9%); tỉnh Bình Dương chuyển biến thấp nhất trong 6 tỉnh, số giải ngân tăng 5,1%.

6 địa phương vẫn có tỷ lệ giải ngân 11 tháng năm 2022 thấp hơn bình quân chung cả nước

Tuy nhiên, các địa phương này vẫn là các địa phương có tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công 11 tháng năm 2022 thuộc nhóm thấp hơn bình quân chung cả nước là 58,48%.

Theo Bộ Tài chính, kiểm tra chi tiết trên báo cáo giải ngân vốn ngân sách trung ương cho thấy, cả 6 địa phương đều có các dự án chưa giải ngân hoặc số vốn đã giải ngân rất thấp (dưới mức bình quân chung các địa phương là 40%). Cụ thể: tỉnh Hà Giang có 20 dự án, tỉnh Cao Bằng 6 dự án, tỉnh Bắc Kạn 6 dự án, tỉnh Lai Châu 4 dự án, Điện Biên 9 dự án, tỉnh Bình Dương 1 dự án. 

Theo quy định, thời hạn thực hiện thanh toán vốn đầu tư công kế hoạch năm 2022 qua Kho bạc Nhà nước chỉ còn 1 tháng với số vốn chưa giải ngân của 6 địa phương còn rất lớn. Không tính vốn 3 Chương trình mục tiêu quốc gia, thì số vốn chưa giải ngân còn khoảng 11.986,502 tỷ đồng, trong đó vốn ngân sách địa phương 5.843,035 tỷ đồng và vốn ngân sách trung ương 6.143,467 tỷ đồng.

Tại công văn gửi 6 địa phương, Bộ trưởng Bộ Tài chính cho biết, đây là nhiệm vụ rất nặng nề. Do đó, Bộ trưởng yêu cầu các cấp chính quyền địa phương phải coi việc thực hiện và giải ngân vốn đầu tư theo kế hoạch đã được giao là nhiệm vụ chính trị trọng tâm. Theo đó, tập trung chỉ đạo tiếp tục khắc phục những tồn tại, hạn chế, tạo chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa trong giải ngân vốn đầu tư công năm 2022; quyết liệt triển khai theo chức năng, nhiệm vụ về thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công.

Bộ trưởng Bộ Tài chính cũng đề nghị, đến hết ngày 31/1/2023, dự án không giải ngân được hết vốn kế hoạch năm 2022 đã giao, không thuộc diện được phép kéo dài theo quy định thực hiện hủy dự toán, hoàn trả ngân sách trung ương.

Nguồn: https://baochinhphu.vn/don-doc-6-dia-phuong-giai-ngan-von-dau-tu-cong-102230106101557209.htm

Còn lại: 1000 ký tự
Giải quyết mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa

​CHG - Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn nhất quán quan điểm xây dựng một đất nước dân chủ, kỷ cương và phục vụ nhân dân. Việc giải quyết tốt mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội như Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết số 27-NQ/TW, của Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII, ngày 9-11-2022, “Về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới” là phương thức thể hiện quan điểm ấy của Đảng.

Xem chi tiết
Kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng - Kinh nghiệm và những vấn đề đặt ra

​CHG - Tổng kết thực tiễn công cuộc đổi mới, Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng là một trong “bốn kiên định” thuộc quan điểm chỉ đạo phải quán triệt trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng qua gần 40 năm đổi mới đã giúp Đảng không ngừng nâng cao bản lĩnh, sức chiến đấu, đứng vững trước những biến động nhanh chóng của thời cuộc và đạt được những thành tựu quan trọng trong công tác xây dựng Đảng thời gian qua.

Xem chi tiết
Đánh giá những kết quả đạt được trong thu hút đầu tư tại thành phố Hải Phòng

Đề tài Đánh giá những kết quả đạt được trong thu hút đầu tư tại thành phố Hải Phòng do ThS. Phạm Thị Ngọc Mai (Khoa Tài chính Ngân hàng và Bảo hiểm, Trường Đại học Kinh tế - Kỹ thuật công nghiệp) thực hiện.

Xem chi tiết
Tác động của các yếu tố đến xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam: tiếp cận từ mô hình trọng lực

Đề tài Tác động của các yếu tố đến xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam: tiếp cận từ mô hình trọng lực do Lương Thị Minh Thu1 - Bùi Thị Ngọc Tú1 - Phạm Thị Thu Thủy1 - Vũ Quỳnh Trang1 - TS. Nguyễn Thị Thu Hiền2 (1Sinh viên K57F5, Trường Đại học Thương mại - 2Giảng viên, Trường Đại học Thương mại) thực hiện.

Xem chi tiết
Hành vi tiêu dùng bền vững trong hệ sinh thái học tập số dưới góc nhìn của sinh viên

Đề tài Hành vi tiêu dùng bền vững trong hệ sinh thái học tập số dưới góc nhìn của sinh viên do TS. Nguyễn Ngọc Trang 1- CN Trần Trung Tín1 - CN Hoàng Sơn Hiếu1 - TS. Lê Ngọc Nương2 (1Viện Khoa học Xã hội Liên ngành - Trường Đại học Nguyễn Tất Thành - 2Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh, Đại học Thái Nguyên) thực hiện.

Xem chi tiết
2
2
2
3