Tóm tắt:
Mục tiêu chính của nghiên cứu này là để vận dụng các mô hình tính giá trong kế toán tài sản cố định tại các doanh nghiệp FDI trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
Bài nghiên cứu đã khảo sát 160 doanh nghiệp FDI trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, kết quả thu về 154 phiếu, tỷ lệ đạt 96,25%. Dữ liệu thu được tổng hợp, phân tích đánh giá thang đo thông qua kiểm định Cronbach’s alpha, EFA, hồi quy Binary logistic, kết quả nghiên cứu cho thấy có 6 nhân tố tác động đến việc áp dụng giá trị hợp lý gồm: (1) Lợi ích, (2) Bất lợi, (3) Áp lực cưỡng chế, (4) Cơ chế bắt chước, (5) Rào cản, (6) Tác động của môi trường. Trên cơ sở đó, nhóm tác giả đề xuất mô hình tính giá nhằm góp phần nâng cao việc cung cấp thông tin một cách đầy đủ, phù hợp và đáng tin cậy cho đối tượng khi sử dụng.
Từ khóa: kế toán tài sản cố định, mô hình tính giá, doanh nghiệp FDI, tỉnh Đồng Nai.
Trong xu hướng toàn cầu hóa như hiện nay đòi hỏi hệ thống kế toán ở Việt Nam phải không ngừng phát triển và hoàn thiện để có thể hội nhập và cạnh tranh với hệ thống kế toán các nước trong khu vực Đông Nam Á và trên thế giới. Vì vậy, việc vận dụng mô hình tính giá trong kế toán tại các doanh nghiệp ở nước ta rất cần được quan tâm và phát triển.
Trong các mô hình tính giá hiện nay, mô hình giá gốc truyền thống được sử dụng rộng rãi, nhưng nó vẫn không thể cung cấp cho người sử dụng thông tin về giá trị của các tài sản một cách kịp thời để đưa ra quyết định kinh doanh. Chính vì vậy, cần phải nghiên cứu vận dụng các mô hình tính giá khác thay thế cho mô hình giá gốc hiện tại, nhằm cung cấp thông tin đầy đủ và kịp thời cho đối tượng sử dụng.
Cho đến nay, chưa có nhiều nghiên cứu về việc áp dụng cơ sở tính giá theo giá trị hợp lý đối với kế toán tài sản cố định. Xuất phát từ mục đích trên, bài nghiên cứu này nhằm mục đích nghiên cứu việc vận dụng mô hình tính giá và mức độ áp dụng cơ sở tính giá theo giá trị hợp lý trong kế toán tài sản cố định để đảm bảo các thông tin được cung cấp một cách đầy đủ, minh bạch và đáng tin cậy, đồng thời cho thấy những biến động của nền kinh tế, từ đó giúp các nhà đầu tư, ngân hàng và đối tác có cái nhìn tổng quan về tình hình hoạt động của doanh nghiệp.
Nghiên cứu dựa vào những nghiên cứu trước đây ở nước ngoài của các tác giả Barth và cộng sự (2001), Laux và Leuz (2009), Talnagiova Viktoria & Cerna Lubica (2011), Nelson (1996) và các nghiên cứu trong nước, như: Nguyễn Tuấn Duy (2016a), Phạm Thanh Hương (2017), Phạm Thanh Hương, Mai Ngọc Anh & cộng sự (2014), Nguyễn Thu Hoài (2009), Mai Ngọc Anh(2011), Lê Hoàng Phúc (2012), Nguyễn Ngọc Lan (2017), Dương Thị Chi (2014), Song & cộng sự (2010), Mai Ngọc Anh (2011a), Trần Văn Tùng & cộng sự (2016), Võ Văn Nhị và cộng sự (2015) đã chỉ ra rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến việc vận dụng mô hình tính giá trong kế toán tài sản cố định tại các doanh nghiệp FDI, như: lợi ích, bất lợi, tín dụng và cho vay, cơ chế bắt chước, các rào cản và tác động của môi trường đến việc áp dụng giá trị hợp lý.
Mô hình nghiên cứu đề xuất được thể hiện như Hình 1.
Hình 1: Đề xuất mô hình nghiên cứu
Bài nghiên cứu tiến hành khảo sát các đối tượng phụ trách lập BCTC tại các doanh nghiệp FDI trên địa bàn tỉnh Đồng Nai thông qua bảng câu hỏi có sẵn. Từ dữ liệu thu thập được tổng hợp, phân tích đánh giá thang đo thông qua kiểm định Cronbach’s alpha, EFA và hồi quy logistis.
Việc xác định cỡ mẫu của nghiên cứu định lượng được thực hiện theo con số kinh nghiệm = (số biến cần đo) x 10. Vậy trong nghiên cứu này gồm có 23 biến quan sát cho 6 nhân tố chính và 1 biến phụ thuộc, do đó kích thước mẫu tối thiểu là 23* 5 = 115 mẫu (theo Hair và cộng sự, 2006). Để nâng cao độ tin cậy cho các thông tin thu thập, nhóm tác giả tiến hành khảo sát 160 mẫu và thu về được 149 phiếu hợp lệ.
Bảng 1. Kết quả đánh giá độ tin cậy của thang đo
Bảng 1 cho thấy các nhân tố đều có hệ số Cronbach’s Alpha lớn hơn 0.7 và các biến thang đo đều có hệ số tương quan biến - tổng (Corrected Item-Total Correlation) lớn hơn 0.3. Như vậy, các thang đo đều đạt độ tin cậy và các biến thang đo đều có ý nghĩa giải thích tốt.
Kết quả phân tích nhân tố với 23 biến quan sát được gom thành 6 biến độc lập như sau: Hệ số KMO= 0.850 > 0.5; Sig. (Bartlett’s Test) = 0.000 < 0.05 cho thấy mức độ ý nghĩa của tập hợp dữ liệu đưa vào phân tích nhân tố khá cao, chứng tỏ mô hình phân tích nhân tố phù hợp. Giá trị Eigenvalue = 1.022; phương sai trích = 69.823% từ 6 nhân tố được rút trích. Các nhân tố đều có hệ số bán tải lớn hơn 0.5. (Bảng 2)
Bảng 2. Kết quả phân tích EFA
Bảng 4. Kết quả hồi quy
Kết quả được viết theo phương trình sau:
= - 7.109 + 1.592 * LI + 1.490 * BC - 0.930 * RC – 1.105 * MT
Kết quả Bảng 4 cho thấy các biến LI, BC tác động cùng chiều với biến phụ thuộc AD (áp dụng cơ sở tính giá theo giá trị hợp lý trong kế toán TSCĐ). Biến RC, MT tác động ngược chiều với biến phụ thuộc AD (áp dụng cơ sở tính giá theo giá trị hợp lý trong kế toán TSCĐ). Biến BL, CC không có tác động lên biến phụ thuộc AD (áp dụng cơ sở tính giá theo giá trị hợp lý trong kế toán TSCĐ). Từ kết quả phân tích hồi quy Binary Logistic của mô hình, ta chấp nhận các giả thuyết H1, H4, H5, H6 và bác bỏ giả thuyết H2, H3.
Bảng 5. Kết quả kiểm định độ phù hợp của mô hình
Kết quả Bảng 5 cho thấy tổ hợp tuyến tính của toàn bộ các hệ số trong mô hình có ý nghĩa trong việc giải thích cho việc áp dụng cơ sở tính giá theo giá trị hợp lý trong kế toán tài sản cố định tại các doanh nghiệp FDI trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. Bên cạnh đó, hệ số -2LL= 56.006, đây là giá trị tương đối nhỏ, điều này chứng tỏ mô hình xây dựng được hoàn toàn phù hợp.
Qua kết quả nghiên cứu về việc vận dụng mô hình tính giá trong kế toán tài sản cố định tại các doanh nghiệp FDI trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, nhóm tác giả đưa ra một số khuyến nghị nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng và sử dụng cơ sở tính giá theo giá trị hợp lý trong kế toán tài sản cố định dễ dàng và hiệu quả hơn.
Thứ nhất, Bộ Tài chính cần đưa ra các khái niệm, giải thích, hướng dẫn, quy định về giá trị hợp lý và các phương pháp xác định và tính giá của nó.
Thứ hai, các bộ phận chuyên môn như giám đốc/phó giám đốc, kế toán trưởng,... cần học thêm các kiến thức liên quan đến tính giá theo giá trị hợp lý để phát huy tối đa năng lực và vai trò của mình.
Thứ ba, các trường đại học cần xem xét và thiết kế lại nội dung và chương trình giảng dạy các cách tính giá theo giá trị hợp lý và xác định sự suy giảm tài sản hoặc cách hạch toán tài sản cố định theo nguyên giá và mô hình đánh giá lại.
Thứ tư, các doanh nghiệp FDI cần có ý thức về việc sử dụng giá trị hợp lý vào kế toán tài sản cố định, bởi lẽ đây đang là một xu hướng mà kế toán Việt Nam đang hướng tới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
A study on the use of pricing models in fixed asset accounting of FDI enterprises
in Dong Nai province
Dang Xuan May1
Duong Thanh Tra1
Ph.D. Nguyen Thi Bach Tuyet1
1Lac Hong University
ABSTRACT:
This study explores how to use pricing models in fixed asset accounting of FDI enterprises in Dong Nai province. In this study, 160 FDI enterprises in Dong Nai province were surveyed and 154 surveys were valid (96.25%). Collected data was analyzed and the scale was tested through Cronbach's alpha analysis, EFA analysis, and Binary logistic regression analysis. The study finds that there are six factors affecting the application of the fair value pricing model, including: (1) Benefits, (2) Disadvantages, (3) Coercive pressure, (4) Imitation mechanism, (5) Barriers, (6) Environmental impact. The study proposes a pricing model to provide appropriate and reliable information for users.
Keywords: fixed asset accounting, pricing model, FDI enterprises, Dong Nai province.
[Tạp chí Công Thương - Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, Số 19 tháng 9 năm 2023]
(CHG) Ngày 14/11, tại Đà Nẵng, Cục kỹ thuật an toàn và Môi trường công nghiệp (Bộ Công Thương) phối hợp với Hiệp hội Công nghiệp môi trường Việt Nam tổ chức Hội nghị tập huấn “Nâng cao năng lực bảo vệ môi trường cho các cơ quan, doanh nghiệp khu vực miền Trung”.
Xem chi tiết(CHG) Ngày 14/11, Sở Công Thương phối hợp với Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ Logistics Việt Nam tổ chức Diễn đàn “Khu thương mại tự do Đà Nẵng - Động lực mới phát triển ngành logistics thành phố Đà Nẵng”.
Xem chi tiết(CHG) Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Long An đã có tân Bí thư Đảng ủy, Chính ủy Bộ Chỉ huy BĐBP tỉnh.
Xem chi tiếtBài báo nghiên cứu "Xu hướng tiêu dùng xanh trong phát triển bền vững tại Việt Nam" do TS. Nguyễn Thị Hạnh (Khoa Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, Trường Đại học Hải Phòng) thực hiện.
Xem chi tiếtĐề tài Tự chủ đại học và những vấn đề thực tiễn triển khai tại các trường đại học công lập trực thuộc Bộ Công Thương do TS. Nguyễn Đồng Anh Xuân (Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội) thực hiện.
Xem chi tiết