Quan điểm phát huy sức mạnh của toàn dân bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới là yêu cầu, đòi hỏi khách quan của thực tiễn. Đây thực chất là việc phát huy sức mạnh các lực lượng của toàn dân trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học, đối ngoại… tham gia bảo vệ Tổ quốc, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trước hết, quan điểm này là sự vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin về sức mạnh của toàn dân tham gia bảo vệ Tổ quốc. Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lê-nin khẳng định, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, chính quần chúng là người làm nên lịch sử. Trên cơ sở kế thừa tư tưởng vũ trang quần chúng bảo vệ thành quả cách mạng xã hội chủ nghĩa của C. Mác và Ph. Ăngghen, V.I. Lê-nin đã tổng kết, bổ sung, phát triển, xây dựng nên học thuyết bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, trong đó yêu cầu phải tranh thủ thời gian hòa bình, tận dụng mọi điều kiện thuận lợi, ra sức xây dựng các tiềm lực kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, khoa học, kỹ thuật, quân sự và chuẩn bị đất nước sẵn sàng chiến đấu, động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân biến các tiềm lực và thế trận quốc phòng thành sức mạnh hiện thực để bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó, V.I. Lê-nin chỉ rõ, tất cả các lực lượng của nhân dân đều phải được động viên cho cuộc chiến tranh đó, cả nước phải trở thành một mặt trận cách mạng; thắng lợi đều tùy thuộc vào tinh thần của quần chúng đang đổ máu trên chiến trường. Đó là trách nhiệm của toàn dân dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản và sự tổ chức, quản lý của nhà nước chuyên chính vô sản.
Thứ hai, phát huy sức mạnh của toàn dân bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới còn là sự vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của quần chúng nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc, vì kẻ thù chống chúng ta về mọi mặt, nên chúng ta cũng phải dùng sức mạnh toàn diện để chống lại chúng. Người khẳng định: “Chiến tranh ngày càng phức tạp và hết sức khó khăn. Không dùng toàn lực của nhân dân về đủ mọi mặt để ứng phó, không thể nào thắng lợi được”(2). Do đó, sức mạnh bảo vệ Tổ quốc không chỉ là sức mạnh về vật chất, về vũ khí trang bị..., mà còn về tinh thần, lực lượng của quần chúng nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, tuy có những vũ khí tối tân, nhưng chỉ dựa vào vũ khí và binh lực thì không thể thắng nổi địch, mà chỉ có “sự đồng tâm của đồng bào ta đúc thành một bức tường đồng xung quanh Tổ quốc, dù địch hung tàn, xảo quyệt đến mức nào, đụng đầu nhằm bức tường đó, chúng cũng phải thất bại”(3). Người khẳng định, dân trí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không chống nổi, vì lực lượng toàn dân là lực lượng vĩ đại hơn hết. Không ai chiến thắng được lực lượng đó. Bên cạnh đó, Người luôn khẳng định sức mạnh của chiến tranh nhân dân là to lớn. Như vậy, lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc phải phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và đối ngoại.
Thứ ba, phát huy sức mạnh của toàn dân bảo vệ Tổ quốc vốn là truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. Trong lịch sử chống giặc ngoại xâm, ông cha ta luôn lấy “dân làm gốc”, dựa vào sức mạnh nơi dân, coi sự đồng lòng, ủng hộ của nhân dân là thành trì vững chắc nhất. Phát huy sức mạnh toàn dân là cội nguồn sâu xa tạo thành sức mạnh đoàn kết giúp dân tộc ta vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, trường tồn trước những biến thiên của lịch sử, để “sơn hà thiên cổ điện kim âu” (non sông nghìn thuở vững âu vàng).
Thứ tư, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sức mạnh của toàn dân được phát huy cao độ trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Trong Cách mạng Tháng Tám 1945, hàng triệu quần chúng nhân dân vùng lên lật đổ chính quyền tay sai, đánh đuổi phát-xít Nhật và tay sai giành độc lập dân tộc. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Đảng đã phát huy sức mạnh toàn diện của nhân dân tham gia kháng chiến. Trong Chỉ thị Toàn dân kháng chiến, ngày 12-12-1946, Đảng xác định nhân dân: “Không đi lính cho Pháp; Không nộp thuế cho Pháp; Không bán lương thực cho Pháp; Không dẫn đường cho Pháp; Không làm việc cho Pháp; Không lộ tin tức cho Pháp. Phải đoàn kết chặt chẽ; Phải đánh giặc, trừ gian; Phải tăng gia sản xuất; Phải ủng hộ Chính phủ kháng chiến; Phải tiếp tế bộ đội; Phải báo tin cho bộ đội”(4). Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, ngày 19-12-1946, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi: Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước.
Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng ta phát huy và đưa sức mạnh toàn dân lên tầm cao mới. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 12 khóa III (ngày 27-12-1965), về quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ, xác định: Nhiệm vụ chống Mỹ, cứu nước hiện nay rõ ràng là nhiệm vụ thiêng liêng của cả dân tộc ta, của nhân dân ta từ Nam chí Bắc. Chúng ta cần động viên mạnh mẽ tinh thần yêu nước của toàn dân, nâng cao lòng căm thù của nhân dân ta đối với đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai.
Thực hiện chủ trương trên, nhân dân cả nước đã huy động tổng lực sức người, sức của trên lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế, ngoại giao và văn hóa chi viện cho chiến trường miền Nam, tạo sức mạnh to lớn đánh bại đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Phát huy sức mạnh toàn dân bảo vệ Tổ quốc như một quy luật đấu tranh giữ nước của dân tộc Việt Nam, nhờ đó huy động được hàng triệu thanh niên tự nguyện tòng quân giết giặc; hàng triệu ngày công của nhân dân phục vụ cho chiến tranh; hàng chục triệu tấn hàng hóa, lương thực, thực phẩm của nhân dân phục vụ chiến sĩ và chiến trường, góp phần to lớn vào đánh bại kẻ thù xâm lược, giữ vững nền hòa bình và tự do của dân tộc Việt Nam.
Qua hơn 37 năm đổi mới, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã phát huy tinh thần yêu nước, đoàn kết, phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, tiềm năng, sức sáng tạo của nhân dân, nỗ lực phấn đấu, đạt được nhiều thành tựu quan trọng, tạo nhiều dấu ấn nổi bật. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế quốc tế như ngày nay. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, khối đại đoàn kết toàn dân tộc không ngừng được củng cố, tăng cường và phát huy.
Những năm tới, tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường. Hòa bình, hợp tác, phát triển vẫn là xu thế lớn, song đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn, thách thức. Cục diện thế giới đa cực, đa trung tâm, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt, toàn diện, thậm chí đối đầu. Luật pháp quốc tế và các thể chế đa phương đứng trước những thách thức nghiêm trọng. Các tập hợp lực lượng mới liên tục hình thành, phát triển, với tính chất ngày càng quyết liệt và toàn diện hơn. Các cơ chế tự do thương mại song phương, khu vực và liên khu vực hình thành và phát triển đan xen với xu thế bảo hộ, đơn phương áp đặt. Khoa học - công nghệ và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát triển mạnh mẽ, tạo ra cả thời cơ và thách thức mới đối với mọi quốc gia, dân tộc. Các quốc gia, nhất là các nước lớn tiến hành điều chỉnh chiến lược phát triển, giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài. Cạnh tranh kinh tế, chiến tranh thương mại, tranh giành thị trường, các nguồn tài nguyên, công nghệ, nhân lực chất lượng cao, thu hút đầu tư nước ngoài giữa các nước ngày càng quyết liệt, tác động mạnh đến chuỗi sản xuất và phân phối toàn cầu. Cộng đồng thế giới phải đối phó ngày càng quyết liệt hơn với các thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống, tác động sâu sắc tới mọi quốc gia, dân tộc. Châu Á - Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, trong đó Đông Nam Á có vị trí chiến lược ngày càng quan trọng, là một động lực tăng trưởng kinh tế thế giới, song là khu vực cạnh tranh gay gắt giữa các nước lớn, nhiều điểm nóng an ninh phức tạp, đe dọa hòa bình, an ninh, ổn định và hợp tác, phát triển trong khu vực.
Ở trong nước, sau hơn 37 năm đổi mới, thế và lực, sức mạnh tổng hợp quốc gia, uy tín quốc tế, niềm tin của nhân dân ngày càng được nâng cao, tạo ra những tiền đề quan trọng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, đất nước ta tiếp tục phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị trong và ngoài nước tăng cường hoạt động chống phá. Trên một số vùng chiến lược, địa bàn trọng điểm còn tiềm ẩn các yếu tố gây mất ổn định. Nguy cơ tranh chấp biển, đảo, đe dọa chủ quyền lãnh thổ, chiến tranh thông tin, chiến tranh không gian mạng…; xử lý quan hệ quốc tế, nhất là với nước lớn, đứng trước nhiều thách thức. Các thách thức an ninh phi truyền thống, như biến đổi khí hậu, dịch bệnh, an ninh kinh tế, an ninh mạng, an ninh thông tin, an ninh nguồn nước, an ninh tài chính, an ninh năng lượng, an ninh mạng... diễn biến ngày càng phức tạp, tác động đa chiều, trực tiếp đến nhiều mặt của đời sống xã hội, ở nhiều tầng, nấc khác nhau; quy mô tác động rộng lớn, tạo ra thách thức đối với nước ta trong thời gian tới.
Nhiều nguồn lực trong nhân dân chưa được phát huy hiệu quả; đời sống của một bộ phận người dân còn khó khăn; khoảng cách phát triển giữa các vùng miền, khu vực còn lớn. Việc cụ thể hóa và tổ chức thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát huy vai trò, sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở một số lĩnh vực, địa bàn hiệu quả còn hạn chế; một số cơ chế, chính sách được ban hành nhưng còn bất cập, chưa đáp ứng được nguyện vọng, lợi ích chính đáng của nhân dân, việc sửa đổi, bổ sung lại chưa kịp thời. Một số cấp ủy, chính quyền chưa nắm bắt được tình hình nhân dân và giải quyết những vấn đề bức xúc nảy sinh tại cơ sở dẫn đến những “điểm nóng”, mất an ninh, trật tự ở địa phương. Cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” và phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” chưa được cụ thể hóa kịp thời... Việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế sẽ làm tăng thêm sự biến động tính chất xã hội, kết cấu xã hội của các giai tầng xã hội ở nước ta, tiếp tục dẫn đến sự chuyển dịch kết cấu trong nội bộ của mỗi giai cấp, tầng lớp, cũng như trong sự tương tác với các giai cấp, tầng lớp khác làm gia tăng sự đa dạng và khác biệt về lợi ích gắn liền với những thay đổi nhanh chóng về tình cảm, ý chí, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân; sự phân hóa giàu - nghèo, khác biệt, chênh lệch về thu nhập, mức sống... làm cho việc đoàn kết, tập hợp, phát huy sức mạnh toàn dân gặp nhiều khó khăn.
Nhận diện rõ những nguy cơ, thách thức trên, sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới được đặt ra với những yêu cầu cao hơn, đó là bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Mục tiêu bảo vệ Tổ quốc với nhiều điểm mới được bổ sung, như: Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo đảm thành quả cách mạng, uy tín, vị thế quốc tế của đất nước; bảo vệ an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh mạng; triệt tiêu các nhân tố mất ổn định chính trị từ bên trong; dập tắt nguy cơ xung đột, chiến tranh; đóng góp tích cực vào giữ gìn hòa bình thế giới. Do vậy, việc phát huy sức mạnh của toàn dân bảo vệ Tổ quốc càng quan trọng hơn bao giờ hết.
Để phát huy sức mạnh của toàn dân tham gia bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, cần tập trung thực hiện một số nhiệm vụ sau:
Một là, phát huy cao độ tinh thần yêu nước và tham gia đấu tranh tích cực của toàn dân trước sự chống phá của các thế lực thù địch. Hiện nay, các thế lực thù địch, đối tượng phản động, cơ hội chính trị trong và ngoài nước câu kết với nhau tăng cường chống phá toàn diện về chính trị, quân sự, kinh tế, tư tưởng và văn hóa…, lợi dụng vấn đề “dân chủ, nhân quyền” dân tộc, tôn giáo để tuyên truyền kích động thực hiện “diễn biến hòa bình”. Do vậy, cần phải phát huy cao độ tinh thần yêu nước, tinh thần cảnh giác cách mạng của toàn dân, nhằm tiến công trên nhiều hướng, nhiều phương diện kiên quyết làm thất bại âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch. Tuyên truyền, giáo dục cho các tầng lớp nhân dân về truyền thống yêu nước, tinh thần tự tôn, tự lực tự cường của dân tộc; trang bị kiến thức, kỹ năng để nhân dân dễ nhận diện được những âm mưu, thủ đoạn và các hình thức chống phá của kẻ thù trên các lĩnh vực đời sống xã hội, tăng sức đề kháng và tự “miễn dịch” trước các thông tin xấu, độc, nhất là trên không gian mạng.
Hai là, phát huy cao độ quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, thực hiện một cách phù hợp chủ trương “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát và dân thụ hưởng” để tạo thành thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân. Phát huy sự sáng tạo của nhân dân tham gia vào thực hiện các nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, xây dựng khu vực phòng thù ở địa phương và các hoạt động bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Phát huy tính chủ động của nhân dân trong việc phát hiện, cung cấp thông tin về sự chống phá của các thế lực thù địch; tích cực đấu tranh chống lại hành động xâm phạm chủ quyền quốc gia. Cấp ủy, chính quyền các cấp, nhất là cấp cơ sở, cần phổ biến, quán triệt, tuyên truyền cho nhân dân nắm chắc chủ trương, chỉ đạo của Đảng về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; quan tâm xây dựng thực hiện quy chế dân chủ, duy trì sinh hoạt, đối thoại nhằm phát huy tối đa quyền lợi, trách nhiệm, nghĩa vụ và trí tuệ của toàn dân tham gia bảo vệ Tổ quốc.
Ba là, phát huy sự đóng góp, ủng hộ của nhân dân cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Để thực hiện chủ trương bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”, sự đóng góp, ủng hộ của nhân dân về vật chất, tinh thần và công sức cho quá trình xây dựng các công trình quốc phòng, an ninh bảo vệ Tổ quốc rất cần thiết. Nhà nước và chính quyền các cấp tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp, đơn vị, nhân dân sản xuất, kinh doanh và phát triển kinh tế. Duy trì thực hiện hiệu quả phát triển kinh tế gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh, các đơn vị kinh tế tham gia có hiệu quả bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Bốn là, tận dụng tối đa thành tựu khoa học - công nghệ và công tác đối ngoại nhân dân phục vụ bảo vệ Tổ quốc. Cần huy động, phát huy tiềm năng, nguồn lực, trí tuệ tổng lực xây dựng, phát triển nền công nghiệp quốc phòng Việt Nam hiện đại, lưỡng dụng, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường công tác đối ngoại nhân dân, tận dụng triệt để sự ủng hộ, giúp đỡ của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới nhằm giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình để phát triển đất nước. /.
-----------------------------------------
(1) Ban Tuyên giáo Trung ương: Tài liệu nghiên cứu các văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII (Dùng cho cán bộ chủ chốt và báo cáo viên), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2023, tr. 299
(2) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000. t. 4, tr. 298
(3) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 5, tr. 151
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 8, tr. 153
Nguồn: Tạp chí cộng sản
Đề tài Nguồn vốn cho doanh nghiệp du lịch chuyển đổi số do ThS. Trần Thúy Nga (Trường Cao đẳng Du lịch Hà Nội) thực hiện.
Xem chi tiết(CHG) Ngày 14/11, tại Đà Nẵng, Cục kỹ thuật an toàn và Môi trường công nghiệp (Bộ Công Thương) phối hợp với Hiệp hội Công nghiệp môi trường Việt Nam tổ chức Hội nghị tập huấn “Nâng cao năng lực bảo vệ môi trường cho các cơ quan, doanh nghiệp khu vực miền Trung”.
Xem chi tiết(CHG) Ngày 14/11, Sở Công Thương phối hợp với Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ Logistics Việt Nam tổ chức Diễn đàn “Khu thương mại tự do Đà Nẵng - Động lực mới phát triển ngành logistics thành phố Đà Nẵng”.
Xem chi tiết(CHG) Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Long An đã có tân Bí thư Đảng ủy, Chính ủy Bộ Chỉ huy BĐBP tỉnh.
Xem chi tiếtBài báo nghiên cứu "Xu hướng tiêu dùng xanh trong phát triển bền vững tại Việt Nam" do TS. Nguyễn Thị Hạnh (Khoa Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, Trường Đại học Hải Phòng) thực hiện.
Xem chi tiết