Kết quả triển khai thực hiện phát triển bền vững kinh tế biển
Quảng Bình là tỉnh ven biển miền Trung, có đường bờ biển dài trên 116km, thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế rộng trên 2 vạn km2, có 6/8 huyện, thị xã, thành phố giáp biển, 5 cửa sông lớn, có hệ thống đảo Hòn La, Hòn Gió, Hòn Chùa, Hòn Nồm, Hòn Cỏ. Vịnh Hòn La có diện tích mặt nước 4km2 với độ sâu trên 15m và các đảo che chắn xung quanh, là điều kiện thuận lợi để phát triển cảng biển, khu neo đậu, dịch vụ hậu cần nghề cá và vận tải biển. Ngư trường rộng, trữ lượng hải sản lớn, ước tính khoảng 10 vạn tấn, với 1.650 loài hải sản có giá trị kinh tế cao, như tôm hùm, tôm sú, mực nang, mực ống,... Nhiều bãi tắm đẹp, như Vũng Chùa - Đảo Yến, Đá Nhảy, Nhật Lệ, Hải Ninh, Ngư Thủy... kết hợp với hệ thống đường giao thông đồng bộ, dễ dàng kết nối với các tỉnh, thành phố trong nước và khu vực. Hệ thống đường ven biển đang được xây dựng là những điều kiện thuận lợi để địa phương phát triển các ngành kinh tế biển.
Sau hơn 10 năm triển khai thực hiện Chiến lược biển Việt Nam, đặc biệt là sau hơn 3 năm thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW, ngày 22-10-2018, của Hội nghị Trung ương 8 khóa XII, “Về chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”, Tỉnh ủy Quảng Bình đã ban hành Chương trình hành động số 27-CTr/TU, ngày 20-3-2019, “Về thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW”, trên cơ sở đó các cấp, các ngành và địa phương đã tổ chức quán triệt, cụ thể hóa và triển khai thực hiện. Tỉnh đã thành lập Ban Chỉ đạo, xây dựng Quy chế và Kế hoạch thực hiện Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam giai đoạn 2021 - 2025; chú trọng rà soát, điều chỉnh, bổ sung, nâng cao chất lượng và tính khả thi của các chiến lược, quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, địa phương gắn với thực hiện phát triển bền vững kinh tế biển, ven biển gắn với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh trên địa bàn tỉnh. Đặc biệt, tỉnh đã tích hợp nội dung phát triển kinh tế biển vào Quy hoạch tỉnh Quảng Bình thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Với những định hướng đúng đắn và giải pháp cụ thể, những năm qua, kinh tế biển của tỉnh Quảng Bình đạt được những kết quả quan trọng, bao gồm:
Thứ nhất, dịch vụ và du lịch biển có bước phát triển mạnh. Tỉnh Quảng Bình là điểm đến hấp dẫn của nhiều du khách trong và ngoài nước, trở thành địa chỉ tin cậy của các nhà đầu tư. Giai đoạn 2016 - 2020, tổng số khách du lịch đến tỉnh Quảng Bình đạt 19,7 triệu lượt khách, doanh thu tăng bình quân 9% - 10%/năm(1). Công tác xúc tiến, quảng bá được thực hiện với nhiều hình thức đa dạng, nội dung phong phú, chuyên biệt hóa theo từng phân khúc thị trường khách du lịch nội địa và quốc tế. Hệ thống cơ sở lưu trú, khu nghỉ dưỡng cao cấp được đầu tư ngày càng hiện đại, với nhiều thương hiệu quốc tế, đặc biệt là các dự án trọng điểm du lịch vùng ven biển đáp ứng nhu cầu du lịch, nghỉ dưỡng của du khách, góp phần phát triển kinh tế của tỉnh, đồng thời sớm đưa ngành du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.
Thứ hai, công nghiệp, khu kinh tế ven biển được quan tâm đầu tư, đang tiến triển tốt. Khu kinh tế Hòn La bước đầu hình thành mạng lưới các công trình hạ tầng kỹ thuật quan trọng tạo điều kiện đầu tư, xúc tiến đầu tư. Với tổng mức đầu tư trên 41.000 tỷ đồng, Khu kinh tế Hòn La là công trình quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, khu vực và cả nước. Dự án góp phần tăng nguồn thu ngân sách cho tỉnh và khu vực Bắc Trung Bộ, tạo thuận lợi phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ, góp phần thay đổi diện mạo và đời sống của người dân khu vực ven biển. Tỉnh cũng đã lập quy hoạch, tiến hành đầu tư và kêu gọi đầu tư, xây dựng hoàn thiện kết cấu hạ tầng các khu công nghiệp, khu đô thị ven biển mới, như Khu công nghiệp Tây Bắc Quán Hàu, Cam Liên, khu đô thị sinh thái Quang Phú, Bảo Ninh, Hải Ninh... theo hướng tiếp cận mô hình khu công nghiệp sinh thái, có sức hấp dẫn các nhà đầu tư, thu hút và sử dụng hiệu quả các nguồn lực.
Thứ ba, nuôi trồng và khai thác thủy sản ngày càng phát triển. Hiện nay toàn tỉnh có trên 1.000 tàu khai thác hải sản xa bờ, vùng biển xa. Năm 2021, tổng sản lượng thủy sản khai thác đạt trên 89.000 tấn, tăng 3,3% so với cùng kỳ năm trước. Công tác hiện đại hóa tàu cá, cải tiến công nghệ khai thác được chú trọng. Chính sách khuyến khích, hỗ trợ khai thác, nuôi trồng hải sản và dịch vụ khai thác hải sản trên các vùng biển xa được quan tâm đầu tư. Hợp tác xã, tổ hợp tác, tổ đội đoàn kết sản xuất trên biển được quan tâm phát triển, đến nay đã có 2 hợp tác xã, 86 tổ đoàn kết/485 tàu và 113 tổ hợp tác/925 tàu. Công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm soát hoạt động khai thác được triển khai thực hiện nghiêm túc, đầy đủ góp phần ngăn chặn hành vi vi phạm về khai thác thủy sản, vi phạm khai thác IUU(2) và gỡ cảnh cáo thẻ vàng của EC(3). Công tác bảo vệ nguồn lợi thủy sản thực hiện hiệu quả, hệ thống cơ sở dịch vụ hậu cần nghề cá, như: cảng cá, bến cá, khu neo đậu tránh trú bão tàu cá, cơ sở đóng mới, sửa chữa tàu cá, dịch vụ cung ứng phục vụ khai thác được đầu tư xây dựng, nâng cấp, từng bước đáp ứng nhu cầu ngư dân.
Thứ tư, kinh tế hàng hải và các ngành kinh tế biển mới bước đầu khai thác và phát huy hiệu quả. Các chỉ tiêu về cảng biển tăng trưởng mạnh, số lượng hàng hóa và lượt tàu qua cảng đều tăng, sản lượng hàng hóa thông qua cảng biển đạt trung bình 3,5 triệu tấn/năm. Ngoài các bến cảng đang khai thác, trên địa bàn tỉnh hiện có 5 dự án cảng biển, được kêu gọi, xúc tiến đầu tư, ưu tiên xây dựng hoàn thiện hạ tầng logistics và các tuyến đường giao thông, kết nối liên thông cảng biển Hòn La với đường 12, kết nối với Lào, Đông Bắc Thái Lan, Mi-an-ma và các nước trong khu vực...
Thứ năm, khai thác khoáng sản biển, năng lượng tái tạo, công tác điều tra cơ bản tài nguyên biển được chú trọng nâng cao hiệu quả. Khai thác các tài nguyên khoáng sản biển, vùng ven biển gắn với chế biến sâu, đặc biệt là titan và cát trắng thạch anh ngày càng đạt hiệu quả. Tỉnh đã yêu cầu đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án Trung tâm Nhiệt điện Quảng Trạch, dự án cụm trang trại điện gió B&T, dự án điện năng lượng mặt trời Dohwa đúng tiến độ và sớm đưa vào hoạt động. Hiện nay, nhiều nhà đầu tư đang khảo sát đầu tư điện tái tạo tại khu vực ven biển và vùng biển xa, góp phần bảo đảm nhu cầu về điện năng để phát triển kinh tế - xã hội trong nước và khu vực.
Thứ sáu, công tác an sinh xã hội được triển khai đồng bộ, hiệu quả. Chất lượng chăm sóc y tế, giáo dục, cấp điện, thông tin liên lạc, nước ngọt, bảo đảm an ninh, an toàn cho dân cư vùng ven biển và những người lao động trên biển được quan tâm. Tỉnh đã thực hiện tốt Đề án Phát triển y tế biển, đảo Việt Nam đến năm 2020 và tiếp tục cho giai đoạn đến năm 2030. Cùng với nhiều giải pháp bảo đảm an sinh xã hội cho nhân dân; bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa cộng đồng dân cư ven biển, tỉnh còn đẩy mạnh nâng cao nhận thức về biển cho nhân dân để mỗi người dân và toàn xã hội phát huy tối đa tinh thần trách nhiệm, chung tay khai thác hiệu quả các nguồn lực; bảo vệ môi trường biển, giữ vững toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ và lợi ích quốc gia trên biển.
Thứ bảy, phát triển khoa học - công nghệ, bảo vệ môi trường và phòng, chống thiên tai được chú trọng. Tỉnh đã xây dựng phân vùng chức năng vùng bờ tỉnh Quảng Bình đến năm 2030, và kế hoạch ứng phó với biến đổi khí hậu và nước biển dâng; thực hiện hiệu quả kế hoạch ứng phó sự cố tràn dầu và bản đồ nhạy cảm môi trường đường bờ phục vụ ứng phó sự cố tràn dầu tỉnh Quảng Bình; tổ chức triển khai thực hiện phong trào chống rác thải nhựa, nhất là rác thải nhựa đại dương trên địa bàn tỉnh. Mô hình “thu gom rác thải trên tàu cá” đạt hiệu quả rất tích cực. Công tác kiểm soát, quan trắc tổng hợp môi trường biển và hải đảo tỉnh Quảng Bình được triển khai hằng năm, hành lang bảo vệ bờ biển tỉnh Quảng Bình được thiết lập để có cơ sở định hướng, điều chỉnh các quy hoạch, kế hoạch và giải quyết các mâu thuẫn trong khai thác; đồng thời, góp phần bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học, các giá trị văn hóa, cảnh quan di tích ven biển, bảo đảm quyền tiếp cận của người dân với biển; giảm nhẹ tác động của thiên tai, biến đổi khí hậu và nước biển dâng đến sinh kế cộng đồng ven biển, đáp ứng phát triển bền vững vùng ven biển, đảo của tỉnh.
Chương trình nâng cấp và cải tạo hệ thống đê biển và thực hiện đề án phòng, chống sạt lở bờ sông, bờ biển đến năm 2030 đã hoàn thành việc xây dựng. Tỉnh đã hoàn thiện nâng cấp hơn 21km đê, kè; trồng mới và chăm sóc trên 3.700ha rừng phòng hộ ven biển và đang triển khai dự án hiện đại hóa ngành lâm nghiệp và tăng cường chống chịu vùng ven biển; thực hiện hằng năm các dự án nạo vét các cửa sông ven biển, luồng hàng hải vùng các cửa sông ven biển của tỉnh.
Thứ tám, công tác quốc phòng, an ninh, đối ngoại và hợp tác quốc tế về biển được bảo đảm. Lực lượng vũ trang tổ chức phối hợp chặt chẽ với các sở, ngành, địa phương thẩm định hồ sơ, kết hợp với kiểm tra tại thực địa các dự án nhằm bảo đảm phát triển kinh tế - xã hội gắn với nhiệm vụ quốc phòng - an ninh. Công tác tuần tra, kiểm soát bảo vệ chủ quyền biển, đảo được bảo đảm, việc thẩm định các công trình dự án phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn khu vực biên giới biển được triển khai tích cực; việc tạo điều kiện, khuyến khích ngư dân vươn khơi bám biển, triển khai, quản lý chặt chẽ biên giới biển, phòng, chống dịch bệnh COVID-19, ngăn chặn xuất, nhập cảnh trái phép bằng đường biển được tăng cường.
Tuy nhiên, trong những năm qua, tình hình Biển Đông và vùng biển của tỉnh liên tục có những diễn biến phức tạp. Mặt khác, Quảng Bình là tỉnh có xuất phát điểm thấp, kinh tế - xã hội còn gặp nhiều khó khăn, xa các trung tâm kinh tế, chính trị lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh; thường xuyên chịu ảnh hưởng nghiêm trọng của các loại hình thiên tai, biến đổi khí hậu và nước biển dâng, tình trạng hạn hán, xâm nhập mặn, sạt lở, bồi tụ bờ sông, đặc biệt là bão, lũ lụt; sự cố môi trường biển tại 4 tỉnh miền Trung và dịch bệnh COVID-19 đã ảnh hưởng lớn đến phát triển kinh tế - xã hội, môi trường của tỉnh. Quy hoạch tổng thể phát triển vùng ven biển còn thiếu định hướng và chưa đồng bộ cho phát triển các ngành; liên kết vùng, liên kết ngành gắn với cơ cấu lại các ngành kinh tế còn thiếu cơ chế. Việc huy động các nguồn lực xã hội đầu tư cho phát triển các ngành kinh tế biển còn gặp nhiều khó khăn; vấn đề ô nhiễm môi trường vùng ven biển, cửa sông, rác thải tại các khu dân cư ven biển, đặc biệt là rác thải nhựa đang là thách thức lớn cho sự phát triển bền vững kinh tế biển của tỉnh. Ý thức về khai thác tài nguyên và bảo vệ môi trường biển còn thấp; không gian vùng bờ được khai thác, sử dụng cho các ngành kinh tế cũng như nhu cầu bảo vệ các giá trị văn hóa tự nhiên dẫn đến mâu thuẫn về lợi ích.
Phương hướng, giải pháp để phát triển bền vững kinh tế biển
Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh khóa XVII, nhiệm kỳ 2020 - 2025 nhấn mạnh, cần tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế và các ngành, lĩnh vực có hiệu quả, thực chất; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế; khai thác, phát huy tốt các lợi thế so sánh, hình thành rõ các ngành chủ lực, mũi nhọn, nhất là các ngành du lịch, thủy sản, năng lượng tái tạo... Lộ trình phát triển kinh tế biển được xây dựng gắn với hình thành văn hóa sinh thái biển, cải thiện sinh kế bền vững và nâng cao đời sống của người dân vùng biển. Đẩy mạnh đầu tư, phát triển bền vững kinh tế biển, kiểm soát khai thác tài nguyên biển gắn liền với bảo đảm quốc phòng - an ninh, bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
Giai đoạn 2021 - 2025, tỉnh Quảng Bình tập trung phát triển kinh tế các vùng biển dựa vào lợi thế của điều kiện tự nhiên, hài hòa giữa bảo tồn và phát triển, cụ thể:
Thứ nhất, tại vùng biển và ven biển phía bắc từ đèo Ngang đến phía bắc sông Gianh sẽ xây dựng trung tâm kinh tế với nòng cốt là Khu kinh tế Hòn La. Đẩy mạnh đầu tư kết cấu hạ tầng cảng biển, phát triển dịch vụ vận tải biển, chuỗi cung ứng logistics, công nghiệp năng lượng sạch (điện gió ngoài khơi). Tập trung phát triển nghề cá, dịch vụ hậu cần nghề cá, bảo đảm an toàn, an ninh hàng hải, giúp ngư dân yên tâm bám biển khai thác nguồn lợi thủy, hải sản.
Thứ hai, vùng biển và ven biển trung tâm từ nam sông Gianh đến xã Hải Ninh (huyện Quảng Ninh) tập trung quy hoạch, đầu tư phát triển các khu đô thị ven biển, trung tâm thương mại, các khu du lịch, vui chơi, giải trí, nghỉ dưỡng, du lịch biển cao cấp ở vùng Đá Nhảy, Nhật Lệ - Quang Phú, Bảo Ninh, Hải Ninh. Đầu tư nông nghiệp sinh thái, đánh bắt xa bờ, các ngành dịch vụ hỗ trợ kinh tế biển.
Thứ ba, khu vực từ xã Hải Ninh đến xã Hạ Cờ (thuộc huyện Quảng Ninh), giáp tỉnh Quảng Trị sẽ xây dựng vùng kinh tế tổng hợp, các khu chức năng đặc thù, đa ngành, đa chức năng, đa lĩnh vực, bao gồm: du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng; dịch vụ du lịch, các khu dân cư đô thị, nông thôn; trung tâm công cộng, các khu sản xuất nông nghiệp, rừng phòng hộ ven biển. Tập trung phát triển công nghiệp năng lượng tái tạo ven biển.
Với mục tiêu đến năm 2030, tỉnh Quảng Bình cơ bản đạt các tiêu chí về phát triển kinh tế biển bền vững, các ngành kinh tế thuần biển đóng góp khoảng 15 - 20% GRDP và kinh tế của 6 huyện, thị xã, thành phố ven biển ước đạt 85 - 90% GRDP của tỉnh(4); việc phát triển bền vững kinh tế biển gắn với cơ cấu lại kinh tế địa phương cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
Một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về phát triển bền vững kinh tế biển gắn với cơ cấu lại kinh tế của địa phương, tạo đồng thuận trong toàn xã hội, nâng cao nhận thức, tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền trong tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát quá trình triển khai thực hiện các chủ trương, giải pháp về phát triển bền vững kinh tế biển.
Hai là, chủ động rà soát, bổ sung quy hoạch, kế hoạch, chính sách về phát triển các ngành kinh tế biển gắn với cơ cấu lại các ngành kinh tế phù hợp với điều kiện của địa phương tích hợp trong quy hoạch tỉnh Quảng Bình thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 theo hướng phát triển bền vững. Thực hiện hiệu quả liên kết vùng bảo đảm tính khả thi, đồng bộ, thống nhất, phù hợp quy hoạch vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung, quy hoạch không gian biển quốc gia, quy hoạch tổng thể khai thác trên cơ sở sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ và tiềm năng, lợi thế của tỉnh. Huy động các nguồn lực trong và ngoài tỉnh, lấy đầu tư công dẫn dắt đầu tư tư trong đầu tư để xây dựng hạ tầng, đặc biệt là Khu kinh tế Hòn La, xây dựng đường ven biển, cầu Nhật Lệ 3, các khu đô thị, nghỉ dưỡng nhằm phát triển hạ tầng kết nối nội vùng và liên tỉnh bảo đảm cho phát triển kinh tế - xã hội vùng ven biển.
Ba là, tăng cường liên kết nội vùng với các địa phương vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung trong việc phát triển các ngành kinh tế biển nhằm nâng cao giá trị, bảo đảm sự phát triển bền vững kinh tế, xã hội, môi trường gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh, như: liên kết, hợp tác với các tỉnh trong khối liên kết Hà Nội - Quảng Bình - Quảng Nam - Đà Nẵng - Thừa Thiên Huế; các tỉnh thuộc “Con đường di sản miền Trung”; các tỉnh, thành phố trong khối Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh miền Tây Nam Bộ; các tỉnh trên hành lang kinh tế Đông Tây; các tỉnh thuộc 3 nước Việt Nam - Lào - Thái Lan sử dụng chung đường 12 để phát triển các sản phẩm du lịch. Trong lĩnh vực thủy sản, đẩy mạnh khai thác xa bờ theo hướng bền vững, kiểm soát đánh bắt ven bờ, liên kết hình thành các nghiệp đoàn nghề cá lớn liên tỉnh trong việc khai thác các vùng biển Hoàng Sa, Trường Sa để hỗ trợ trong việc sản xuất, tiêu thụ cũng như bảo đảm an toàn trước các tác động của thiên tai và nhân tai trên biển. Đầu tư hạ tầng phục vụ hậu cần nghề cá, chú trọng công tác thông tin, cứu hộ, cứu nạn cho ngư dân, nâng cao năng suất, hiệu quả nuôi trồng, chế biến sâu thủy sản trên cơ sở ứng dụng khoa học, kỹ thuật, công nghệ... Đối với ngành năng lượng, cần ưu tiên phát triển năng lượng tái tạo, điện gió ngoài khơi, điện mặt trời. Đối với kinh tế hàng hải, tập trung hoàn thiện hạ tầng logistics và các tuyến giao thông, phát triển các cảng chuyên dùng gắn với dịch vụ hỗ trợ. Phối hợp với các địa phương có biển nghiên cứu, đề xuất Trung ương bố trí nguồn kinh phí riêng và mô hình quản lý theo vùng cho triển khai Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển từ nay đến năm 2030.
Bốn là, ưu tiên đầu tư cho công tác điều tra cơ bản, nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo, khai thác công nghệ số, đào tạo nguồn nhân lực cho các ngành kinh tế biển phù hợp với cơ cấu lại các ngành kinh tế của địa phương; đánh giá tiềm năng và lợi thế về điều kiện tự nhiên, tài nguyên, hệ sinh thái có tính liên vùng đối với ngành kinh tế biển mới, như năng lượng tái tạo, sinh dược học biển, thiết bị tự vận hành ngầm... Hoàn thành thiết lập và quản lý tốt vùng bờ, hành lang bảo vệ bờ biển tỉnh Quảng Bình; tăng cường kiểm soát ô nhiễm môi trường biển và hải đảo, nhất là rác thải nhựa; thực hiện tốt công tác ứng phó, khắc phục sự cố tràn dầu, hóa chất độc trên biển; tăng cường hợp tác, liên kết với các địa phương trong vùng; tranh thủ sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế để phát triển nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng vùng biển và ven biển, điều tra cơ bản tài nguyên, bảo vệ môi trường biển, phòng, chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu và nước biển dâng.
Năm là, tăng cường năng lực bảo đảm quốc phòng, an ninh, thực thi pháp luật trên biển, tiếp tục hoàn thiện tổ chức các lực lượng bảo đảm quốc phòng, an ninh, thực thi pháp luật trên biển. Đầu tư kinh phí, trang thiết bị hiện đại, chú trọng đào tạo nhân lực, nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật và tăng cường khả năng hiệp đồng, tác chiến của các lực lượng tham gia bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán và lợi ích quốc gia của Việt Nam. Xây dựng lực lượng công an khu vực ven biển, đảo, các khu đô thị, khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển vững mạnh. Nâng cao năng lực hoạt động của các lực lượng làm nhiệm vụ ứng phó sự cố, phòng, chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn; bảo đảm an ninh, an toàn cho dân cư, người lao động và các hoạt động kinh tế; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, biên phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc tại khu vực biên giới biển.
Sáu là, huy động các nguồn lực, khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư cho phát triển bền vững kinh tế biển. Đẩy mạnh huy động nguồn lực từ các thành phần kinh tế, nhất là kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Chủ động thu hút các nhà đầu tư lớn, có công nghệ nguồn, trình độ quản lý tiên tiến từ các nước phát triển. Ưu tiên đầu tư ngân sách nhà nước cho phát triển các xã vùng ven biển; xã hội hóa đầu tư kết cấu hạ tầng, giao thông biển, đảo, các khu đô thị, khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển. Khuyến khích phát triển các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, các tập đoàn kinh tế biển mạnh hoạt động sản xuất, kinh doanh trên biển, đặc biệt là ở các vùng biển xa bờ./.
-----------------
(1) Xem: Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Bình lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2020 - 2025
(2) Hoạt động đánh bắt IUU (Ilegal, Unreported and Unregulated fishing) là hoạt động đánh bắt cá trái phép, không báo cáo và không được quản lý. Đây là hoạt động đánh bắt cá trái với các biện pháp bảo tồn và quản lý ở khắp nơi trên thế giới.
(3) Thẻ vàng của Ủy ban châu Âu (EC) là thẻ phạt đối với quốc gia vi phạm quy định hàng hóa hải sản khi nhập khẩu vào thị trường Liên minh châu Âu (EU) đều phải khai báo, xác nhận nguồn gốc, bảo đảm không vi phạm quy định IUU (khai thác bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định).
(4) Chương trình hành động số 27-CTr/TU, ngày 20-3-2019, của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Bình thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XII, “Về chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”
Nguồn: Tạp chí cộng sản
(CHG) Ngày 14/11, tại Đà Nẵng, Cục kỹ thuật an toàn và Môi trường công nghiệp (Bộ Công Thương) phối hợp với Hiệp hội Công nghiệp môi trường Việt Nam tổ chức Hội nghị tập huấn “Nâng cao năng lực bảo vệ môi trường cho các cơ quan, doanh nghiệp khu vực miền Trung”.
Xem chi tiết(CHG) Ngày 14/11, Sở Công Thương phối hợp với Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ Logistics Việt Nam tổ chức Diễn đàn “Khu thương mại tự do Đà Nẵng - Động lực mới phát triển ngành logistics thành phố Đà Nẵng”.
Xem chi tiết(CHG) Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Long An đã có tân Bí thư Đảng ủy, Chính ủy Bộ Chỉ huy BĐBP tỉnh.
Xem chi tiếtBài báo nghiên cứu "Xu hướng tiêu dùng xanh trong phát triển bền vững tại Việt Nam" do TS. Nguyễn Thị Hạnh (Khoa Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, Trường Đại học Hải Phòng) thực hiện.
Xem chi tiếtĐề tài Tự chủ đại học và những vấn đề thực tiễn triển khai tại các trường đại học công lập trực thuộc Bộ Công Thương do TS. Nguyễn Đồng Anh Xuân (Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội) thực hiện.
Xem chi tiết