Sau hơn 4 năm triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, với nhiều khó khăn, thách thức, nền kinh tế đất nước đã đạt được những kết quả quan trọng… làm tiền đề để có thể tăng trưởng cao hơn trong giai đoạn tiếp theo.
Mặc dù gặp nhiều khó khăn hơn thuận lợi, nhưng năm 2024, nước ta đã hoàn thành toàn bộ 15/15 chỉ tiêu chủ yếu, trong đó 12 chỉ tiêu vượt mục tiêu đề ra, là cơ sở vững chắc để đạt được mục tiêu tăng trưởng 8% trở lên năm 2025.
Quy mô nền kinh tế ngày càng mở rộng, thu nhập bình quân đầu người GDP/người và thu nhập quốc dân GNI/người tăng liên tục trong nhiều năm qua, tiệm cận gần tới mức của nhóm nước có thu nhập trung bình cao. Năm 2022 (giai đoạn phục hồi sau đại dịch COVID-19), quy mô kinh tế của Việt Nam đã vượt trên 410 tỷ USD, bình quân đầu người đã đạt mức trên 4.000 USD; năm 2024 đạt 476,3 tỷ USD, bình quân đầu người đạt trên 4.700 USD.
Cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Số liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy, năm 2024, trong GDP, tỷ trọng giá trị sản lượng của ngành công nghiệp - xây dựng chiếm 37,64%; khu vực dịch vụ chiếm 42,36%; khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 11,86%...
Năm 2024, năng suất lao động của toàn nền kinh tế theo giá hiện hành đạt 221,9 triệu đồng/lao động (tương đương 9.182 USD/lao động, tăng 726 USD so với năm 2023); theo giá so sánh, năng suất lao động tăng 5,88% do trình độ của người lao động được cải thiện (tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ năm 2024 ước đạt 28,3%, cao hơn 1,1 điểm phần trăm so với năm 2023).
Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo của Việt Nam phát triển tương đối năng động, đóng góp tích cực vào nâng cao năng lực cạnh tranh công nghiệp. Theo số liệu thống kê năm 2024, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đóng góp tỷ lệ 24,43% trong GDP.
Tuy nhiên, qua bốn năm triển khai thực hiện mục tiêu, đã bộc lộ một số hạn chế trong chất lượng tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế: 1- Tăng trưởng kinh tế mặc dù đã ở mức khá cao so với mức tăng trưởng chung của thế giới, đạt bình quân 5,2% cho cả giai đoạn 2021 - 2024, song vẫn thấp hơn nhiều so với kỳ vọng (kế hoạch 2021 - 2025 đặt mục tiêu 6,5 - 7%); 2- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm và theo đó là sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng giảm tỷ trọng lao động trong nông nghiệp có thể không đạt mục tiêu nếu thiếu giải pháp hữu hiệu; 3- Tăng trưởng công nghiệp chế biến chế tạo còn thấp, năm 2024 đạt 9,83%, bình quân chung toàn ngành công nghiệp là 8,32% so với năm 2023. Các ngành dịch vụ chỉ đạt mức tăng trưởng chung khoảng 7,38%.
Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 05/CT-TTg về các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm, đột phá thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công, bảo đảm mục tiêu tăng trưởng cả nước năm 2025 đạt 8% trở lên, trong đó nêu rõ 7 quan điểm chỉ đạo, điều hành. Để bảo đảm tăng trưởng 8% trở lên năm 2025 và hai con số các năm tiếp theo, cần tập trung thực hiện một số giải pháp:
Một là, tập trung thực hiện quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả các chủ trương, quan điểm chỉ đạo mới, đột phá của Trung ương, Bộ Chính trị, Quốc hội, Chính phủ, tháo gỡ, giải phóng ngay các nguồn lực của nền kinh tế, như đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; thực hiện tinh gọn tổ chức bộ máy hệ thống chính trị bảo đảm hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả phục vụ người dân và doanh nghiệp; triển khai thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22-12-2024 của Bộ Chính trị, “Về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia”, thúc đẩy phát triển kinh tế số, xã hội số...; doanh nghiệp nhà nước (DNNN) phải tiên phong trong tăng tốc, bứt phá tăng trưởng theo tinh thần Chỉ thị số 09/CT-TTg, ngày 21-3-2025, của Thủ tướng Chính phủ, “Về nhiệm vụ, giải pháp của doanh nghiệp nhà nước góp phần tăng trưởng kinh tế hai con số, phát triển đất nước nhanh và bền vững”, góp phần bảo đảm kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; khẩn trương nghiên cứu xây dựng, trình cấp có thẩm quyền ban hành Nghị quyết về các cơ chế, chính sách phát triển đột phá khu vực kinh tế tư nhân, xác định quan điểm kinh tế tư nhân phải là một động lực quan trọng nhất cho tăng trưởng, tăng năng suất lao động và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế...
Triển khai quyết liệt các biện pháp để sớm ổn định tổ chức bộ máy hệ thống chính trị và đi vào hoạt động, bảo đảm hiệu năng, hiệu lực và hiệu quả. Việc sắp xếp hệ thống chính trị và bộ máy chính quyền 2 cấp là một cuộc cách mạng, đã và đang được thực hiện quyết liệt. Bên cạnh những lợi ích to lớn của việc sắp xếp, tổ chức lại tổ chức, bộ máy, cần lường trước trong ngắn hạn, sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của toàn xã hội, làm tăng chi phí xã hội trong sản xuất, kinh doanh, làm chậm quá trình vận hành của nền kinh tế và từ đó có xu hướng làm chậm nhịp tăng trưởng của nền kinh tế...
Hai là, ưu tiên thời gian, trí tuệ, nguồn lực để tập trung hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách nhằm khắc phục “điểm nghẽn của điểm nghẽn” là thể chế phát triển đất nước.
Tập trung rà soát sửa đổi, hoàn thiện các quy định không còn phù hợp, chồng chéo hoặc chưa đầy đủ theo hướng vướng mắc ở đâu, tháo gỡ ở đó, ở cấp nào thì cấp đó chủ động xử lý, thực hiện ngay theo thẩm quyền hoặc đề xuất cấp có thẩm quyền sửa đổi, hoàn thiện; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền gắn với tăng cường kiểm tra, giám sát và nâng cao năng lực thực thi của cán bộ, công chức, viên chức; thể chế, cơ chế, chính sách phải hướng tới huy động mọi thành phần kinh tế cho phát triển đất nước.
Khẩn trương nghiên cứu sửa đổi và bảo đảm tiến độ sửa đổi, ban hành các luật: Doanh nghiệp; Đầu tư; Đầu tư theo phương thức đối tác công - tư; Đấu thầu; Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh; Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo; Năng lượng nguyên tử...
Tập trung rà soát, cắt giảm thủ tục hành chính để giảm phiền hà, tiết kiệm chi phí cho người dân, doanh nghiệp; cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi để giải quyết nhanh các thủ tục đầu tư, khuyến khích đầu tư của mọi thành phần kinh tế. Phấn đấu trong năm 2025 giảm ít nhất 30% thời gian xử lý thủ tục hành chính; giảm ít nhất 30% chi phí kinh doanh; bãi bỏ ít nhất 30% điều kiện kinh doanh không cần thiết; mọi thủ tục liên quan đến doanh nghiệp phải được thực hiện trực tuyến, thông suốt, liền mạch và hiệu quả, bảo đảm minh bạch, giảm tối đa giấy tờ; 100% thủ tục hành chính được thực hiện không phụ thuộc vào địa giới hành chính trong phạm vi cấp tỉnh.
Phát huy hơn nữa vai trò, hiệu quả hoạt động của ban chỉ đạo về rà soát, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc liên quan đến các dự án; triển khai kịp thời, hiệu quả nghị quyết của Quốc hội về cơ chế, chính sách đặc thù để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc đối với các dự án, đất đai trong kết luận thanh tra, kiểm tra...
Rà soát, tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc để bàn giao, sớm đưa vào vận hành, khai thác thương mại các công trình, dự án đã và đang triển khai, những dự án chậm tiến độ nhằm giải phóng nguồn lực, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, tránh thất thoát, lãng phí.
Tiếp tục nhân rộng mô hình tổ công tác làm việc với từng doanh nghiệp công nghệ lớn toàn cầu, nhà đầu tư chiến lược, chủ động, kịp thời báo cáo cấp có thẩm quyền các cơ chế, chính sách ưu đãi, vượt trội, cạnh tranh quốc tế để thu hút các dự án FDI quy mô lớn, công nghệ cao, có khả năng dẫn dắt doanh nghiệp trong nước tham gia chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu. Phát triển “Cổng một cửa đầu tư quốc gia” nhằm tăng cường thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
Nghiên cứu, áp dụng khung pháp lý chuyên biệt góp phần đưa hệ thống pháp luật Việt Nam bắt kịp tốc độ phát triển của nền kinh tế số, đổi mới sáng tạo và hội nhập quốc tế, đặc biệt là công nghệ tài chính, trí tuệ nhân tạo, kinh tế nền tảng, thương mại điện tử, đặc khu kinh tế; đề xuất khung pháp lý thử nghiệm có kiểm soát đối với các ngành công nghệ mới.
Tiếp tục hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện các cơ chế, chính sách thí điểm, đặc thù, quy định mới, đột phá, cơ chế “luồng xanh” cho các dự án đầu tư vào khu công nghiệp, khu kinh tế trong lĩnh vực công nghệ cao; phân loại dự án xanh, tiêu chí xanh để làm cơ sở huy động vốn phát triển xanh.
Khẩn trương nghiên cứu, xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích đầu tư, mở rộng năng lực sản xuất nguyên, vật liệu và tham gia các dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam, đường sắt đô thị, đường sắt kết nối với quốc tế, dự án năng lượng tái tạo, điện gió ngoài khơi… và hướng dẫn, hỗ trợ, tạo thuận lợi tối đa cho người dân, doanh nghiệp trong triển khai thực hiện.
Mở rộng phạm vi, đối tượng, địa bàn áp dụng một số cơ chế, chính sách thí điểm, đặc thù đã được Quốc hội cho phép áp dụng tại các địa phương và đã phát huy hiệu quả; rà soát tổng thể về điều kiện đầu tư, kinh doanh, điều kiện hành nghề, thủ tục hành chính và chi phí tuân thủ của doanh nghiệp; rà soát, bổ sung và triển khai quyết liệt Nghị quyết số 02/NQ-CP của Chính phủ về cải thiện môi trường kinh doanh, bảo đảm rõ mục tiêu, rõ người, rõ việc, rõ thời gian và rõ kết quả; tiếp tục triển khai quyết liệt các giải pháp phát triển đồng bộ thị trường tài chính, thị trường vốn, nhất là các giải pháp về phát hành trái phiếu doanh nghiệp an toàn, hiệu quả, bền vững, công khai, minh bạch, hỗ trợ hiệu quả cho doanh nghiệp huy động vốn trung, dài hạn phát triển sản xuất, kinh doanh. Năm 2025, phấn đấu hoàn thành mục tiêu nâng hạng thị trường chứng khoán.
Bên cạnh đó, xây dựng khung pháp lý quản lý, thúc đẩy phát triển tài sản số, tiền kỹ thuật số lành mạnh và hiệu quả. Điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, kịp thời, hiệu quả, phối hợp chặt chẽ, hài hòa với chính sách tài khóa mở rộng hợp lý, có trọng tâm, trọng điểm và các chính sách vĩ mô khác; trong đó, tập trung thực hiện hiệu quả hơn nữa các nhiệm vụ, giải pháp về điều hành lãi suất, tỷ giá, tăng trưởng tín dụng, điều hành thị trường mở, thị trường liên ngân hàng, tái cấp vốn, lượng tiền cung ứng, phát hành tín phiếu,…; đưa tiền ra và hút tiền về nhịp nhàng, đồng bộ, hợp lý nhằm tạo nguồn vốn giá rẻ, lãi suất thấp cho người dân, doanh nghiệp phát triển sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế gắn với ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng; thực hiện quyết liệt, hiệu quả hơn nữa các giải pháp để giảm mặt bằng lãi suất cho vay, tạo điều kiện cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn vay với chi phí hợp lý, giá vốn rẻ phục hồi và phát triển sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; điều hành tăng trưởng tín dụng phù hợp mục tiêu tăng trưởng kinh tế, theo dõi và kiểm soát lạm phát (4,5 - 5%); khuyến khích các tổ chức tín dụng hướng tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên, các động lực tăng trưởng kinh tế, tín dụng cho các dự án, công trình trọng điểm, xuất khẩu nông sản; kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro; tăng cường hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm soát và giám sát chặt chẽ hoạt động của các tổ chức tín dụng; kịp thời xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật các trường hợp vi phạm, nhất là các tổ chức tín dụng cạnh tranh lãi suất không lành mạnh, không đúng quy định (cả lãi suất huy động và cho vay); không để tình trạng các ngân hàng thương mại tự do tăng lãi suất không theo định hướng, cạnh tranh không lành mạnh, không bình đẳng; rà soát, phân “luồng” đối tượng để cắt giảm thủ tục, điều kiện cho vay nhằm đẩy vốn tín dụng nhanh hơn, kịp thời hơn, hiệu quả hơn đối với những đề án, dự án, lĩnh vực tạo động lực cho tăng trưởng, nhất là tăng trưởng xanh; đồng thời, bảo đảm an toàn, hợp lý hoạt động ngân hàng; nghiên cứu nâng quy mô Chương trình cho vay đối với lĩnh vực lâm sản, thủy sản lên khoảng 100 nghìn tỷ đồng và mở rộng phạm vi Chương trình đối với lĩnh vực nông, lâm, thủy sản; tiếp tục nghiên cứu triển khai các gói tín dụng ưu đãi để thúc đẩy các động lực tăng trưởng kinh tế và cho người trẻ dưới 35 tuổi vay mua nhà ở.
Tổ chức thực hiện hiệu quả hoạt động của Ban Chỉ đạo rà soát và tổ chức thực hiện việc xử lý vướng mắc trong hệ thống pháp luật; triển khai hiệu quả Đề án “Ứng dụng công nghệ số trong việc tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị về văn bản quy phạm pháp luật”, trong đó tập trung xây dựng, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương vận hành “Hệ thống thông tin tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị về văn bản quy phạm pháp luật” để kịp thời phát hiện, nghiên cứu, đề xuất sửa đổi, hoàn thiện chính sách, quy định của pháp luật, tháo gỡ những rào cản, vướng mắc về thể chế nhằm bảo đảm mục tiêu kiến tạo, thúc đẩy phát triển.
Ba là, đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công, lấy đầu tư công dẫn dắt, kích hoạt và thu hút mọi nguồn lực xã hội.
Khẩn trương hoàn tất việc phân bổ toàn bộ kế hoạch đầu tư vốn ngân sách nhà nước năm 2025, bảo đảm trọng tâm, trọng điểm, không dàn trải, phù hợp với khả năng thực hiện và tuân thủ đúng quy định pháp luật về đầu tư công; bảo đảm dự toán để giải ngân cho các dự án; trường hợp không hoàn thành phân bổ, Chính phủ sẽ thu hồi số vốn ngân sách trung ương chưa phân bổ để bố trí cho các dự án khác cần vốn đẩy nhanh tiến độ hoàn thành, đồng thời chỉ đạo thanh tra làm rõ trách nhiệm cá nhân, tập thể để xử lý theo quy định của Đảng và pháp luật Nhà nước.
Đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công, phấn đấu tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công năm 2025 đạt ít nhất 95% kế hoạch, theo tinh thần lấy đầu tư công dẫn dắt, kích hoạt và thu hút mọi nguồn lực xã hội; quyết tâm hoàn thành mục tiêu đến hết năm 2025 có ít nhất 3.000km đường cao tốc và trên 1.000km đường ven biển...
Quyết liệt thực hiện công tác giải phóng mặt bằng, thúc đẩy tiến độ thi công các dự án, công trình trọng điểm, đẩy nhanh việc thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia. Quan tâm thúc đẩy tiến độ, tháo gỡ dứt điểm khó khăn về cung ứng vật liệu thi công, đẩy nhanh tiến độ chuẩn bị đầu tư, quyết định đầu tư, lựa chọn nhà thầu các dự án, công trình trọng điểm quốc gia, các dự án đầu tư xây dựng trên địa bàn.
Xây dựng kế hoạch giải ngân đối với từng dự án; yêu cầu chủ đầu tư báo cáo tiến độ giải ngân của từng dự án theo từng tháng, quý, tuân thủ kế hoạch giải ngân theo từng tháng, quý; phân công lãnh đạo chịu trách nhiệm từng dự án, kiểm soát chặt quy mô, tiến độ, hiệu quả đầu tư; đưa kết quả giải ngân thành tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ để kiểm điểm, khen thưởng, xử lý kỷ luật nghiêm minh, kịp thời; rà soát, kịp thời điều chuyển kế hoạch vốn của các dự án giải ngân chậm để bổ sung cho các dự án khác có khả năng giải ngân tốt và có nhu cầu đẩy nhanh tiến độ theo quy định, đặc biệt là các dự án quan trọng, cấp bách, các dự án hạ tầng chiến lược và các dự án kết nối vùng, kết nối quốc gia.
Tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong giải ngân vốn đầu tư công; có chế tài và thực hiện xử lý nghiêm theo quy định pháp luật các tổ chức, cá nhân cố tình gây khó khăn, cản trở, làm chậm tiến độ giao vốn, thực hiện và giải ngân vốn đầu tư công; kiên quyết xử lý các hành vi tiêu cực, tham nhũng trong quản lý đầu tư công; thay thế kịp thời những cá nhân yếu kém về năng lực, sợ sai, sợ trách nhiệm, đùn đẩy, né tránh khi thực thi công vụ.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát tại hiện trường, đôn đốc các nhà thầu, tư vấn đẩy nhanh tiến độ. Việc đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công phải gắn với bảo đảm chất lượng công trình, dự án, không để xảy ra tiêu cực, thất thoát, lãng phí, lợi ích nhóm.
Nâng cao chất lượng chuẩn bị đầu tư các dự án cho giai đoạn 2026 - 2030, nhất là các dự án hạ tầng chiến lược, đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam, các tuyến đường sắt kết nối quốc tế, đường sắt đô thị, các cảng biển trung chuyển quốc tế... Bảo đảm tổng số dự án nguồn ngân sách trung ương giai đoạn 2026 - 2030 không quá 3.000 dự án trên phạm vi cả nước. Ngoài ra, tăng cường quản lý thu ngân sách nhà nước; triệt để tiết kiệm 10% chi thường xuyên, để tập trung cho đầu tư phát triển.
Bốn là, thúc đẩy đầu tư tư nhân, thu hút FDI.
Đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thu hút đầu tư; tiếp tục nhân rộng cơ chế Tổ công tác làm việc với từng nhà đầu tư chiến lược để thu hút các dự án FDI quy mô lớn, công nghệ cao.
Triển khai hiệu quả Nghị định số 182/2024/NĐ-CP, ngày 31-12-2024, quy định về thành lập, quản lý và sử dụng Quỹ hỗ trợ đầu tư, góp phần ổn định môi trường đầu tư, khuyến khích, thu hút các nhà đầu tư chiến lược, các tập đoàn đa quốc gia và hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước trong một số lĩnh vực công nghệ cao, mới nổi như trí tuệ nhân tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, tuần hoàn…
Đẩy nhanh tiến độ sửa đổi, điều chỉnh và triển khai hiệu quả Quy hoạch và kế hoạch thực hiện quy hoạch điện VIII; tháo gỡ kịp thời khó khăn, vướng mắc, bảo đảm tiến độ đưa vào vận hành các dự án nguồn điện lớn, lưới điện quan trọng.
Năm là, khai thác hiệu quả thị trường trong nước, phát triển thương mại điện tử và thu hút khách du lịch.
Về phía cầu của nền kinh tế: Thực hiện những giải pháp kích cầu thông qua tăng chi tiêu của Chính phủ, thúc đẩy, mở rộng hơn nữa thị trường hàng hóa và dịch vụ (bao gồm cả thị trường xuất nhập khẩu và trong nước). Đẩy mạnh giải ngân đầu tư công, thực hiện tốt các dự án đầu tư phát triển của Chính phủ, từ đó tăng nhu cầu hàng hóa và dịch vụ từ Chính phủ.
Bên cạnh đó, thúc đẩy tiêu dùng xã hội thông qua các giải pháp thị trường và tín dụng trong tiêu dùng xã hội. Xây dựng các cơ chế, chính sách về thuế, tín dụng để hỗ trợ tăng sức mua, kích cầu tiêu dùng, du lịch nội địa; triển khai các giải pháp đồng bộ để khai thác xu hướng tiêu dùng, du lịch trong nước dịp lễ, tết. Thực hiện các chính sách miễn, giảm, gia hạn thuế, phí, lệ phí, tiền thuê đất,... để hỗ trợ người dân, doanh nghiệp, thúc đẩy hoạt động sản xuất, kinh doanh, du lịch, tiêu dùng trong nước.
Về phía cung cho nền kinh tế: Khai thông, tăng vốn đầu tư toàn xã hội vào hoạt động sản xuất, kinh doanh, giải quyết nhanh chóng những rào cản trong quá trình gia nhập thị trường hoạt động sản xuất, kinh doanh, thực hiện giảm lãi suất, tăng khả năng tiếp cận, huy động vốn vào hoạt động sản xuất, kinh doanh… Thực hiện những giải pháp hướng tới giảm chi phí sản xuất, kinh doanh thông qua việc đẩy nhanh tiến độ hoàn thành các công trình hạ tầng, đặc biệt là hạ tầng kết nối, hạ tầng số.
Song song với đó, tạo lập lòng tin thị trường bằng việc nâng cao hiệu quả cải cách hành chính, điều chỉnh các chính sách tài chính (miễn, giảm thuế), bảo đảm an toàn, an ninh trong hoạt động kinh tế, đặc biệt là an ninh trong lĩnh vực tài chính, tín dụng và đầu tư. Thúc đẩy mạnh mẽ các hoạt động thương mại, xuất, nhập khẩu và du lịch. Các hoạt động thương mại và du lịch thuộc về nhóm những hoạt động có tác động nhanh, phản ứng nhanh với các tác động của chính sách. Đẩy mạnh hoạt động này sẽ thúc đẩy tăng trưởng cao trong ngắn hạn.
Đẩy mạnh kết nối cung cầu, xúc tiến thương mại thị trường trong nước; thúc đẩy phân phối hàng hóa qua nền tảng số gắn với tăng cường giám sát, xử lý vi phạm trên các nền tảng thương mại điện tử; phát triển các mô hình tiêu dùng kết hợp trải nghiệm như trung tâm thương mại số, kết hợp thương mại - văn hóa - du lịch…
Thúc đẩy kết nối giữa nhà sản xuất trong nước và các kênh phân phối hiện đại để mở rộng tiêu thụ sản phẩm nội địa trên cả nước; hỗ trợ doanh nghiệp phát triển hệ thống logistics thông minh, kết hợp kho bãi hiện đại, trí tuệ nhân tạo, công nghệ dữ liệu lớn để tối ưu vận chuyển, giảm chi phí phân phối; nghiên cứu, thực hiện hình thành mô hình “Cảng miễn thuế” để đưa Việt Nam trở thành trung tâm logistics lớn.
Bên cạnh đó, bảo đảm an ninh năng lượng, không để thiếu hụt, đứt gãy nguồn cung xăng dầu cho thị trường trong nước trong mọi tình huống. Đẩy mạnh xúc tiến, quảng bá du lịch; nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch; tổ chức các chương trình văn hóa nghệ thuật, thể thao, tạo điểm nhấn thu hút khách du lịch. Thực hiện hiệu quả chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa giai đoạn 2025 - 2035; xây dựng, thực hiện kế hoạch phát triển công nghiệp văn hóa.
Sáu là, khai thác hiệu quả thị trường nước ngoài, thúc đẩy xuất khẩu bền vững.
Hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng hiệu quả các cam kết trong 17 FTA đã ký kết; đẩy mạnh đàm phán, ký kết các FTA với các nước Trung Đông, Thụy Sỹ, Na Uy, Phần Lan, Ấn Độ, Brazil…; tăng cường khai thác các thị trường mới, tiềm năng, thị trường Trung Đông, Halal, Mỹ La-tinh, châu Phi.
Cung cấp thông tin, hỗ trợ doanh nghiệp đáp ứng tiêu chuẩn mới của thị trường xuất khẩu; cập nhật, đánh giá tình hình xuất khẩu của Việt Nam để cảnh báo sớm các doanh nghiệp về những mặt hàng có khả năng bị nước ngoài điều tra; hỗ trợ doanh nghiệp trong các vụ kiện chống bán phá giá.
Song song với đó, tăng cường kiểm tra, kiểm soát về xuất xứ hàng hóa và chủ động, tích cực trao đổi với các đối tác về chính sách quản lý xuất xứ hàng hóa của Việt Nam. Tăng cường quản lý hoạt động thương mại điện tử xuyên biên giới; thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ, đặc biệt tài chính - ngân hàng, phát triển logistics, mở rộng vận tải hàng không, đường biển; tăng cường hội nhập quốc tế về dịch vụ và ký kết các hiệp định kinh tế số. Tạo điều kiện để doanh nghiệp, chủ thể kinh tế hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp tiếp cận nguồn vốn, ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất, chế biến sản phẩm nông nghiệp nhằm cải thiện về năng suất, nâng cao chất lượng, giá trị sản phẩm, tạo điều kiện thuận lợi để mở rộng thị trường, thúc đẩy xuất khẩu.
Bảy là, thúc đẩy mạnh mẽ các động lực tăng trưởng mới, đột phá phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, nguồn nhân lực chất lượng cao.
Chủ động xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể và tổ chức triển khai quyết liệt, đồng bộ, kịp thời, hiệu quả Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22-12-2024, của Bộ Chính trị, “Về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia”; Nghị quyết số 03/NQ-CP, ngày 9-1-2025, của Chính phủ, về “Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW”; Nghị quyết số 193/2025/QH15, ngày 19-2-2025, của Quốc hội, “Về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia”.
Thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia sâu rộng, toàn diện trong tất cả ngành, lĩnh vực, tạo động lực mới cho tăng trưởng kinh tế dựa trên khoa học, công nghệ, dữ liệu, công nghệ số và đổi mới sáng tạo; phát triển kinh tế số rộng khắp, bảo đảm an ninh, an toàn mạng. Tiếp tục triển khai hiệu quả Quyết định số 06/QĐ-TTg ngày 6-1-2022, Thủ tướng Chính phủ, phê duyệt Đề án “Phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030” (gọi tắt là Đề án 06); đẩy nhanh việc chia sẻ dữ liệu, nhất là dữ liệu về dân cư, tư pháp, giáo dục, ngân hàng, thuế, bảo hiểm, doanh nghiệp, đất đai, phương tiện.
Đẩy mạnh chuyển đổi xanh, phát triển kinh tế tuần hoàn, kinh tế sáng tạo, kinh tế chia sẻ, các ngành, lĩnh vực mới nổi, như trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, điện toán đám mây, năng lượng mới, y sinh học, công nghiệp văn hóa, công nghiệp giải trí…, thúc đẩy các mô hình kinh doanh mới, ưu tiên tập trung vào một số ngành bán buôn, bán lẻ, công nghiệp chế biến, chế tạo, du lịch, logistics.
Tập trung triển khai nghị quyết của Quốc hội về các chính sách thí điểm mới, đột phá về đầu tư, tài chính, đấu thầu, thử nghiệm có kiểm soát; khuyến khích và phát huy hiệu quả các quỹ khoa học - công nghệ, quỹ đầu tư mạo hiểm, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo; áp dụng mô hình “đầu tư công - quản lý tư”, “đầu tư tư - sử dụng công”, “lãnh đạo công - quản trị tư”; bảo đảm sự chủ động, sáng tạo của các nhà khoa học. Đồng thời, tập trung triển khai hiệu quả các quy hoạch và kế hoạch thực hiện quy hoạch đã ban hành; phát triển các hành lang kinh tế, vành đai công nghiệp - đô thị - dịch vụ gắn với các trung tâm mới, như sân bay Long Thành, trung tâm tài chính quốc tế; chủ động đề xuất các giải pháp phát triển các ngành bán dẫn, chíp…
Bên cạnh đó, khẩn trương nghiên cứu, xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích, thu hút chuyên gia giỏi trong nước, người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài có trình độ cao tham gia phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo tại Việt Nam. Đẩy mạnh thương mại hóa 5G; nghiên cứu công nghệ 6G; phát triển vệ tinh viễn thông và nâng cấp hạ tầng trục viễn thông quốc gia. Đẩy mạnh đầu tư và phát triển kết cấu hạ tầng băng rộng cố định tốc độ cao. Nghiên cứu, đề xuất cơ chế, chính sách thúc đẩy hình thành doanh nghiệp công nghiệp công nghệ số.
Khẩn trương triển khai các Đề án về Trung tâm tài chính quốc tế tại Thành phố Hồ Chí Minh và Trung tâm tài chính khu vực tại Đà Nẵng; hoàn thiện hồ sơ dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về trung tâm tài chính quốc tế và khu vực tại Việt Nam để trình Quốc hội tại kỳ họp tháng 5-2025.
Nghiên cứu, xây dựng chính sách đặc thù phát triển các khu kinh tế có tiềm năng lớn như Vân Đồn, Vân Phong, các khu thương mại tự do, khu kinh tế biên giới và các vùng theo các nghị quyết của Bộ Chính trị; hoàn thành các nghị quyết, thủ tục pháp lý trong năm 2025.
Khẩn trương xây dựng các cơ chế, chính sách đặc thù để triển khai ngay Chương trình phát triển nguồn nhân lực ngành công nghiệp bán dẫn đến năm 2030, định hướng đến năm 2050 và bảo đảm nguồn lực để thực hiện Chương trình. Khẩn trương ban hành mới và tổ chức triển khai hiệu quả các chiến lược đã ban hành về nghiên cứu, ứng dụng, khai thác không gian biển, không gian ngầm, không gian vũ trụ.
Tập trung thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp, chính sách khuyến khích, thúc đẩy đào tạo nhân lực chất lượng cao cho các ngành, lĩnh vực ưu tiên, mới nổi; nghiên cứu, xây dựng chính sách hỗ trợ đầu tư nguồn lực, đặt hàng, giao nhiệm vụ đào tạo cho các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao.
Có chính sách thu hút nhân tài vào làm việc trong các cơ quan, đơn vị và chính sách đặc biệt đối với cán bộ, công chức đạt thành tích xuất sắc trong công việc; đồng thời có cơ chế đưa ra khỏi bộ máy những người không đủ năng lực, phẩm chất; cụ thể hóa hơn nữa chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đổi mới sáng tạo, dám đột phá vì lợi ích chung.
Thực hiện các giải pháp đồng bộ phát triển văn hóa, thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội, giảm nghèo bền vững; bảo vệ môi trường, chủ động phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu, quyết liệt thực hiện các cam kết tại COP26, ổn định chính trị, củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh; làm tốt công tác truyền thông chính sách, tiếp tục đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế thực chất, hiệu quả.
Áp lực về thời gian là rất lớn. Mục tiêu tăng trưởng hai con số (khoảng trên 10%) đặt ra để “đến năm 2030 Việt Nam là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao” do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đề ra với nhiều mục tiêu cụ thể có thể đạt được. Nhưng về tổng thể, mục tiêu này nhìn chung là rất thách thức, cần có những nỗ lực vượt bậc, với sự chỉ đạo, điều hành sát sao, quyết liệt của Chính phủ và sự vào cuộc của toàn xã hội, của hệ thống chính trị và đặc biệt là của bộ máy chính quyền các cấp để có những hành động cụ thể, thiết thực tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong cơ cấu lại nền kinh tế, thực hiện công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa./.
Nguồn: Tạp chí cộng sản
CHG - Thể chế thương mại đã được triển khai xây dựng, ban hành và thực thi ngay sau ngày thống nhất đất nước. Trong bối cảnh nền kinh tế số, để Việt Nam tiếp tục hoàn thiện thể chế thương mại, cần tích cực triển khai đồng bộ nhiều giải pháp.
Xem chi tiếtBài báo: “Vai trò tích cực của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong tăng trưởng kinh tế Việt Nam” do Th.S. Nguyễn Bá Thanh - Trường Đại học Tài chính – Marketing thực hiện.
Xem chi tiếtBài báo Giải pháp thúc đẩy chuyển đổi số tỉnh Lào Cai do ThS. Nguyễn Thị Thu Hương (Khoa Quản trị và Marketing - Trường Đại học Kinh tế Kỹ thuật công nghiệp) thực hiện.
Xem chi tiếtBài báo nghiên cứu "Nhận thức của sinh viên về ngân hàng số tại Trường Đại học Văn Hiến" ThS. Đào Văn Hảo (Khoa Kế toán - Tài chính, Trường Đại học Văn Hiến) và ThS. Nguyễn Huỳnh An (Khoa Kinh doanh & Luật, Trường Đại học Quốc tế Sài Gòn) thực hiện.
Xem chi tiết