Trên thế giới, du lịch cộng đồng (DLCĐ) đang là xu hướng được ưa chuộng. Theo kết quả khảo sát về xu hướng nhu cầu của khách du lịch được thực hiện gần đây bởi tổ chức AC Nielsen (do Tổ chức Phát triển Hà Lan ủy thác) cho thấy: 65% số du khách muốn trải nghiệm văn hóa và di sản của địa phương; 54% số du khách muốn trải nghiệm thiên nhiên, nghỉ ngơi và phục hồi sức khỏe; 84% số du khách muốn tham quan danh lam thắng cảnh địa phương; 48% số du khách sẵn sàng chi trả nhiều hơn để trải nghiệm văn hóa và di sản địa phương... Kết quả nghiên cứu này đã phần nào lý giải cho sự chuyển dịch trong cơ cấu phát triển ngành du lịch các năm qua, trong đó có sự “lên ngôi” của loại hình DLCĐ. Chính vì thế, tại nhiều quốc gia, du lịch cộng đồng được quan tâm, chú trọng đầu tư phát triển để mang lại nguồn lợi lớn cho nền kinh tế.
Ở Mỹ, dân cư da đỏ bang Massachusets làm DLCĐ khá thành công. Tại đây, cộng đồng dân cư được tham gia các hoạt động trình diễn văn hóa bản địa, kinh doanh lưu trú (homestay) và cung cấp các dịch vụ ăn uống, hướng dẫn du lịch, vận chuyển khách... Người dân ở đây vẫn sống trong những ngôi nhà đầy đủ tiện nghi, nhưng duy trì ngôi làng được xây dựng theo mô hình truyền thống. Khi có đoàn khách đến tham quan, họ được báo trước 24 giờ, người da đỏ sẽ tái hiện giai đoạn lịch sử thực dân Anh tấn công. Du khách được chiêm ngưỡng cảnh chiến đấu như thật, chia sẻ những cảm xúc của họ, thưởng thức các bữa ăn, tham gia vào các buổi tế lễ như những thành viên của cộng đồng. Mặc dù chi phí cho những dịch vụ giải trí này thường khá cao, nhưng vẫn hấp dẫn du khách. Doanh thu để lại cho cộng đồng chiếm trên 50%.
Ở vùng nông thôn Wallonie của Vương quốc Bỉ có phong cảnh đẹp, thanhbình. Người dân còn giữ được nhiều ngôi nhà cổ, nhiều nét văn hóa truyền thốngđược bảo tồn nên có tiềm năng phát triển DLCĐ. Cơ quan quản lý du lịchđịa phương đã ban hành các chính sách phát triển du lịch như: các điều kiện chấtlượng của cơ sở lưu trú, ăn uống, cấp biển hiệu nhà nghỉ, điều kiện gia nhập hiệphội kinh doanh lưu trú, hỗ trợ vốn, đóng góp lệ phí, đào tạo nhân lực. Để đượccấp biển hiệu DLCĐ, chủ nhà phải được cấp giấy chứng nhận thành viên và phảicam kết đảm bảo chất lượng quy định; phải phục vụ bữa ăn sáng và bữa ăn chínhkhi khách có yêu cầu; phải luôn tạo cho khách một kỳ nghỉ thoải mái qua vănhóa ứng xử lịch sự, hiếu khách và cung cấp các dịch vụ có chất lượng; đồngthời, phải giới thiệu thông tin về các sự kiện văn hóa của địa phương để kháchcó thể tham gia. Mỗi chủ nhà chỉ sử dụng tối đa 5 buồng và để tránh trường hợpthừa khách, chủ nhà có thể thuê các nhà nghỉ khác trong Hiệp hội hoặc thôngqua Trung tâm thông tin Du lịch. Giá cả dịch vụ phải niêm yết rõ ràng.
Ở Nepal, khu bảo tồn thiên nhiên Annapurna rộng 7.629 km2, nằm ở vùng núi Himalaya, dân cư chỉ có hơn 125.000 người bao gồm các dân tộc thiểu số Gurung, Thakali, Manangba... Năm 1986, Dự án khu bảo tồn Annapurna được thành lập với mục tiêu phát triển du lịch cộng đồng gắn với bảo tồn thiên nhiên. Dự án đã xây dựng các khu vườn ươm cây giống để cung cấp cho cộng đồng và các chương trình trồng rừng của tư nhân, xây dựng kho chứa nhiên liệu dầu, gas để thay thế củi, khuyến khích cộng đồng xây dựng trạm thủy điện nhỏ. Dự án đã trao quyền cho cộng đồng địa phương trong các dịch vụ như kinh doanh lưu trú (homestay), hướng dẫn đi bộ tham quan rừng (trekking), dịch vụ ăn uống, giặt đồ, tổ chức các quán trà (tea house). Lợi nhuận du lịch sử dụng 15% cho bảo tồn thiên nhiên, 35% cho chữa cháy và bảo trì các thiết bị du lịch, 50% cho hỗ trợ phát triển cộng đồng.
Ở Thái Lan, bản Huay Hee thuộc miền núi phía Bắc Thái Lan. Dân cư địaphương chủ yếu là người Karen với 26 hộ, 127 người. Họ sống chủ yếu bằngnghề canh tác nương rẫy và khai thác rừng, tự cung tự cấp, mức sống thấp. Sựphong phú về tài nguyên ở đây đã thu hút nhiều du khách đến tham quan. Lượngkhách đông đã phá vỡ sự yên tĩnh của rừng nguyên sinh, phát sinh nhiều tệ nạnxã hội và tác động xấu đến đời sống văn hóa truyền thống. Để phục vụ choDLCĐ, một Ban quản lý đã được thành lập gồm có 1 trưởng ban và 5 ủy viên(dịch vụ, an ninh, tài chính, đào tạo, thư ký & quảng bá du lịch).Các thành viên tham gia DLCĐ tự điều chỉnh theo phương pháp luân phiênđể bảo đảm đoàn kết và sự công bằng. Nguyên tắc chia sẻ lợi ích: người cungcấp dịch vụ được hưởng 80%; Ban quản lý du lịch hưởng 15%; còn 5% đónggóp vào quỹ phát triển cộng đồng. Kết quả là khách du lịch và thu nhập của cáchộ tăng nhanh. Mức độ chi tiêu trung bình 15 - 25 USD/khách (nếu tính cả chiphí vận chuyển từ Bangkok đến thì khoảng 40 - 60 USD/khách); thời gian lưutrú khoảng 3 - 4 ngày.
Trong những năm gần đây, Campuchia và Lào cũng đẩy mạnh phát triển DLCĐ và đạt nhiều kết quả tích cực. Ở Campuchia, mô hình DLCĐ tại tỉnh Chi Phat được thành lập năm 2007 với sự hỗ trợ của Liên minh Cứu hộ động vật hoang dã, đã góp phần chuyển đổi sinh kế thông qua hoạt động du lịch, giảm bớt nguy cơ phá hủy các nguồn tài nguyên thiên nhiên của địa phương. Các nguồn thu cho mô hình DLCĐ của Chi Phat từ các tổ chức phi chính phủ và từ khách du lịch. 20% tổng số đó được đóng góp cho quỹ phát triển DLCĐ, trong đó: tiết kiệm 14%; chi phí cho vận hành dự án, duy trì sản phẩm, hoạt động và thu gom rác thải 25%; phát triển cộng đồng, đường xá, trường học, chùa, cầu và các công trình công cộng 2%; hỗ trợ kiểm lâm 5%; marketing 7%; hỗ trợ người già và hoạt động từ thiện 1%; hỗ trợ Ban quản lý DLCĐ 45%; hỗ trợ quỹ tham gia phát triển
du lịch sinh thái 1%.
Ở Lào, có 11 tỉnh trong cả nước triển khai các mô hình DLCĐ với những sản phẩm chính như: đi bộ đường mòn (trekking); homestay; tham quan bằng tàu; cưỡi voi, quan sát các loài chim; bán sản phẩm thủ công; cắm trại; biểu diễn văn hóa. Điển hình về DLCĐ tại Lào là Công viên bảo tồn động vật hoang dã Nam Nern (Nam Nern Night Safari) nằm trong vùng lõi của khu bảo tồn Nam
Et-Phou, thuộc tỉnh Huaphan. Chương trình DLCĐ này do Hiệp hội Bảo tồn động vật hoang dã phối hợp xây dựng với 14 bản của tỉnh Huaphan. Có 5 nhóm công tác tham gia cung cấp dịch vụ, mỗi nhóm khoảng 5 - 10 người, gồm nhóm hướng dẫn viên, tàu tham quan, nấu ăn, cắm trại và sản xuất thủ công. Cơ chế tài chính được áp dụng là, thu nhập được chia đều cho 14 bản và quỹ đóng góp trực tiếp cho bảo vệ rừng, bảo tồn và các chương trình phát triển kinh tế dựa trên hoạt động du lịch của các
bản.
Tại Việt Nam những năm gần đây, sự phát triển DLCĐ có chiều hướng “tăng trưởng nóng”. Nhiều địa phương đã nhanh chóng nắm bắt cơ hội và dựa trên thế mạnh sẵn có về cảnh quan thiên nhiên và bản sắc văn hóa đã tập trung phát triển DLCĐ với nhiều sản phẩm đa dạng, hấp dẫn. Tiêu biểu có thể kể đến tỉnh Lào Cai với các địa điểm du lịch cộng đồng như bản Cát Cát, bản Dền, bản Hồ ở Sa Pa; tỉnh Sơn La với cao nguyên Mộc Châu; tỉnh Hòa Bình với bản Lát; tỉnh QuảngNam với Hội An...
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi và thành tựu trên thực tế cũng xuất hiện tình trạng một số địa phương người dân làm du lịch với tâm lý “mạnh ai nấy làm”, hoặc theo kiểu phong trào, kinh doanh ngắn hạn, không được hoạch định có bài bản khiến việc phát triển DLCĐ nảy sinh nhiều bất cập, hạn chế. Một số nơi xảy ra tình trạng đua nhau xây dựng các homestay phục vụ khách du lịch nhập hàng hóa từ nơi khác về bán để có lợi nhuận cao hơn. Điều này vừa không đáp ứng được những mong muốn của du khách thậm chí còn phản tác dụng, ảnh hưởng lâu dài nếu cứ tiếp tục lối kinh doanh thiếu bản sắc, chắp vá như vậy.
Ở một số nơi, do thiếu sự tổ chức, thiếu sự chuẩn bị, thiếu kỹ năng dẫn đến tình trạng “nhà nhà làm du lịch” tạo nên tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, thu hút khách bằng mọi giá... Thậm chí, vì lợi nhuận trước mắt, người dân đã bỏ nghề truyền thống, vốn là nét đặc sắc riêng của cộng đồng bản địa, để chạy theo du lịch, khiến cho sự đa dạng về cơ cấu ngành nghề đã bị thu hẹp, đơn điệu, mai một, dẫn đến mất khả năng thu hút khách du lịch.
Vì vậy, để DLCĐ phát triển bền vững, chính quyền địa phương cần có định hướng, kế hoạch phát triển bài bản, khoa học và thiết thực, tạo cơ chế chính sách phù hợp, nâng cấp cơ sở hạ tầng, hỗ trợ người dân phát triển DLCĐ qua việc tổ chức đào tạo, bồi dưỡng kiến thức làm du lịch, xây dựng sự đoàn kết, thống nhất trong cộng đồng, chủ động đa dạng hóa các dịch vụ đi kèm, tăng cường hoạt động quảng bá, tiếp thị. Đồng thời cũng cần huy động được sự vào cuộc của các ngành, đoàn thể trên địa bàn như y tế, đoàn thanh niên, lực lượng an ninh,... cùng tham gia hỗ trợ người dân để hoạt động du lịch thật sự phát huy hiệu quả.
Từ thực tiễn phát triển DLCĐ trên thế giới và Việt Nam, chúng tôi rút ra những bài học cho việc phát triển DLCĐ tại các địa phương như sau:
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
Lessons learnt for the development of community-based tourism in localities
Master. Ha Thi Thu Thuy
Faculty of Tourism and Hotel, University of Economics - Technology for Industries
Abstract:
Many countries in the world have paid attention to the development of community-based tourism in their tourism development strategies in order to bring benefits to local communities, especially communities in remote areas. The development of community-based tourism is an approriate development orientation and it has gained increasing social support. In Vietnam, community-based tourism has brought many socio-economic benefits to local communities. Therefore, it is important to understand about community-based tourism and have solutions to develop this tourism type.
Keywords: community-based tourism development, locality, tourist.
Nguồn: TẠP CHÍ CÔNG THƯƠNG
Đề tài Nguồn vốn cho doanh nghiệp du lịch chuyển đổi số do ThS. Trần Thúy Nga (Trường Cao đẳng Du lịch Hà Nội) thực hiện.
Xem chi tiết(CHG) Ngày 14/11, tại Đà Nẵng, Cục kỹ thuật an toàn và Môi trường công nghiệp (Bộ Công Thương) phối hợp với Hiệp hội Công nghiệp môi trường Việt Nam tổ chức Hội nghị tập huấn “Nâng cao năng lực bảo vệ môi trường cho các cơ quan, doanh nghiệp khu vực miền Trung”.
Xem chi tiết(CHG) Ngày 14/11, Sở Công Thương phối hợp với Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ Logistics Việt Nam tổ chức Diễn đàn “Khu thương mại tự do Đà Nẵng - Động lực mới phát triển ngành logistics thành phố Đà Nẵng”.
Xem chi tiết(CHG) Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Long An đã có tân Bí thư Đảng ủy, Chính ủy Bộ Chỉ huy BĐBP tỉnh.
Xem chi tiếtBài báo nghiên cứu "Xu hướng tiêu dùng xanh trong phát triển bền vững tại Việt Nam" do TS. Nguyễn Thị Hạnh (Khoa Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, Trường Đại học Hải Phòng) thực hiện.
Xem chi tiết