TÓM TẮT:
Hệ thống thông tin quản lý là công cụ quan trọng của doanh nghiệp nhằm hỗ trợ nhà quản trị trong việc ra quyết định. Trong hệ thống thông tin quản lý, các báo cáo nói chung và báo cáo về hoạt động sản xuất (hoặc cung ứng dịch vụ) của doanh nghiệp nói riêng (hay được gọi là các báo cáo sản xuất đóng vai trò là thành phần thiết yếu, giúp theo dõi và phân bổ nguồn lực, kiểm soát chất lượng, đánh giá hiệu suất và các lãng phí đang tồn tại trong hệ thống. Bài viết trình bày khái quát lý thuyết về báo cáo sản xuất như công cụ quan trọng của quản lý trợ giúp doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh trong bối cảnh cạnh tranh ở cấp độ toàn cầu như hiện nay.
Từ khóa: báo cáo sản xuất, hệ thống thông tin quản lý, hệ thống sản xuất, doanh nghiệp.
Cạnh tranh ngày nay giữa các doanh nghiệp (DN) là cạnh tranh của thời đại cách mạng công nghiệp 4.0 với các thách thức về công nghệ số và tự động hóa, nên đòi hỏi sự thay đổi lớn trong cách thức sản xuất và quản lý nguồn lực của các DN. Môi trường ngày càng cạnh tranh với những thay đổi nhanh chóng và liên tục đang đặt ra các yêu cầu cho các tổ chức phải sửa đổi chiến lược, thậm chí sửa đổi cả quy trình hoạt động để thích ứng với hoàn cảnh thay đổi (Kennerley và Neely, 2003). Bất chấp những áp lực này, rất ít tổ chức có các quy trình mang tính hệ thống để đảm bảo việc đo lường một cách chính xác hiệu quả hoạt động của mình. Nguyên nhân chính khiến các công ty gặp rắc rối trong sản xuất đó là các nhà quản lý có xu hướng chấp nhận những khái niệm đơn giản trong việc đánh giá hiệu quả hoạt động sản xuất của họ. Xu hướng chung ở nhiều công ty là đánh giá hoạt động sản xuất chủ yếu dựa trên thông tin cơ sở về chi phí sản xuất và từ đó đánh giá hiệu quả kinh doanh (Sookdeo, 2015).
Hệ thống thông tin quản lý (HTTTQL - tiếng Anh: Management Information System) với nhiệm vụ cung cấp các dữ liệu quan trọng về toàn bộ các hoạt động của doanh nghiệp nói chung, trong đó có các hoạt động sản xuất và cung ứng dịch vụ nói riêng, để từ đó có căn cứ phân tích đánh giá về sử dụng các nguồn lực, tình hình thực hiện các kế hoạch, mức độ hoàn thành các mục tiêu đã đề ra,… Trong mạng lưới thông tin phức tạp này, các báo cáo về các hoạt động sản xuất hoặc cung ứng dịch vụ, gọi chung là báo cáo sản xuất (BCSX), đóng vai trò then chốt, là cầu nối giữa dữ liệu hiện tại và các hành động trong tương lai gần. Những BCSX này nếu có cấu trúc tốt và chất lượng cao, sẽ cung cấp nền tảng vững chắc để đưa ra các quyết định ở cả cấp chiến thuật và chiến lược.
Các nghiên cứu gần đây đã chỉ ra sự cần thiết phải nghiên cứu để hiểu rõ vai trò của hệ thống báo cáo, từ đó hỗ trợ các hoạt động quản lý nhằm đạt được những mục tiêu của tổ chức (Gond và cộng sự, 2012); (Perez và cộng sự, 2007). Tuy nhiên, việc nghiên cứu và sử dụng hiệu quả các BCSX tại các DN hiện nay vẫn chưa cao. Hầu hết các DN sản xuất của Việt Nam thường chỉ tập trung vào hai chức năng đầu tiên trong quản lý, đó là lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch, chưa chú trọng đến chức năng kiểm soát mà kết quả của nó chính là các BCSX vì phần việc này cũng đòi hỏi phát sinh chi phí về mặt thời gian, công sức và các tài nguyên vật chất khác. Trong khi đó, các DN sản xuất trên thế giới thường đặc biệt quan tâm đến việc kiểm soát và ghi chép BCSX một cách hệ thống để đem lại hiệu lực và hiệu quả cho quản lý sản xuất của doạnh nghiệp. Đánh giá về chất lượng thông tin quản lý của các DN Việt Nam, Công ty 1OFFICE - một đơn vị hàng đầu về cung cấp các giải pháp chuyển đổi số cho DN Việt Nam (theo kết quả khảo sát các khách hàng của mình), cho biết: 32% nhà quản trị cấp cao không biết cách xây dựng quy trình chuẩn xác, 52% DN Việt Nam làm việc không có quy trình. Việc phối hợp và giao tiếp giữa các phòng, ban thường diễn ra thủ công và không chặt chẽ, 85% công việc trì trệ do không kịp thời phát hiện nút thắt quy trình để xử lý. Dữ liệu phân mảnh, khó tổng hợp, 97% DN dùng các ứng dụng miễn phí để quản lý như các nhóm chat, Excel, Mail, giao tiếp lời nói,... gây khó khăn trong việc kiểm soát luồng công việc (1office). Theo Báo cáo Thẻ điểm Quản trị Công ty ASEAN (ACGS) năm 2019 theo 5 khía cạnh quản trị tốt của OECD về quản trị công ty, điểm quản trị DN ở Việt Nam thấp nhất trong 6 nước: Singapore, Malaysia, Thái Lan, Philippines, Indonesia và Việt Nam. Điều đó thể hiện năng lực quản trị của các DN Việt Nam đang còn thấp, hệ thống quản lý trong DN chưa đạt hiệu quả cao và điểm yếu trong năng lực quản trị được chỉ rõ chính là công bố thông tin quản lý của DN (Nguyễn Hoa Cương, 2023). Các số liệu trên đã chỉ ra điểm hạn chế về năng lực quản trị của các DN Việt Nam, trong đó có HTTTQL vẫn chưa hoạt động hiệu quả. Điều này đặt ra yêu cầu với các DN về cải thiện chất lượng HTTTQL, trong đó có BCSX để nắm bắt kịp thời các thông tin cần thiết và thích nghi tốt hơn với các biến đổi trong môi trường kinh doanh. Do vậy, BCSX cần được xem như công cụ quan trọng của quản lý để nâng cao năng lực thông tin cho các DN. Tuy nhiên, cho đến nay, có rất ít nghiên cứu về lý thuyết và thực tiễn về BCSX tại các DN trên thế giới và Việt Nam, vì vậy, mục đích của bài báo này nhằm làm rõ khái niệm, vai trò, tầm quan trọng của BCSX trong hệ thống thông tin quản lý tại DN và các phương hướng giải pháp nâng cao chất lượng BCSX về phương diện lý thuyết.
Báo cáo sản xuất là tài liệu cung cấp bản tóm tắt về hoạt động sản xuất và dữ liệu liên quan trong một cơ sở sản xuất hoặc quy trình sản xuất. BCSX là kết quả của hoạt động thống kê các tác nghiệp, nhằm ghi lại các thông tin của quá trình sản xuất đã và đang diễn ra trong thực tiễn, phản ánh toàn diện hoạt động của các bộ phận đảm nhiệm; thu thập, phân loại và hệ thống hóa những dữ liệu đó. Những thông tin từ hoạt động thống kê này sẽ được sử dụng trong quá trình kiểm tra, phân tích tình hình sản xuất, từ đó giúp các nhà quản trị đưa ra những quyết định điều chỉnh quá trình sản xuất. Mặc dù còn hạn chế tài liệu học thuật, hoặc từ điển kinh tế đưa ra về định nghĩa cho BCSX, nhưng ý nghĩa của nó được khẳng định thông qua sự hiện diện phổ biến các BCSX trong HTTTQL của các DN hiện nay.
Nguồn gốc của BCSX được cho là bắt nguồn từ khi xuất hiện công nghiệp hóa. Trong thế kỷ XVIII và XIX, khi cuộc cách mạng công nghiệp đạt được đà phát triển, các nhà máy và xưởng sản xuất bắt đầu áp dụng các phương pháp theo dõi hoạt động sản xuất một cách có tổ chức. Ban đầu, những hồ sơ này được viết tay và tốn nhiều công sức, nhưng chúng đã đặt nền móng cho hệ thống BCSX có cấu trúc mà chúng ta có ngày nay. Sự phát triển của BCSX được đẩy nhanh hơn nữa trong thế kỷ XX với sự ra đời của máy tính và tự động hóa. Cuộc cách mạng kỹ thuật số cho phép chúng ta thu thập, phân tích và khai thác dữ liệu một cách chính xác và hiệu quả hơn. Khi các ngành công nghiệp phát triển ngày càng phức tạp hơn, thì nhu cầu về BCSX càng đòi hỏi cao hơn về mức độ chi tiết hóa và tính kịp thời (hay cần theo thời gian thực). Ngày nay, các doanh nghiệp đã ứng dụng số hóa trong quản lý, BCSX thường được tạo ra và quản lý bằng hệ thống phần mềm phức tạp để chia sẻ và kết hợp dữ liệu từ nhiều nguồn khác nhau trong tổ chức. Trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển, BCSX chủ yếu tập trung vào số lượng sản phẩm đầu ra và theo dõi chi phí cơ bản trong quá trình sản xuất. Tuy nhiên, theo thời gian, chúng đã phát triển với phạm vi dữ liệu rộng hơn để kiểm soát ngày càng toàn diện hơn về hệ thống sản xuất, như: số lượng, chất lượng nguyên vật liệu, bán thành phẩm, thành phẩm, độ tin cậy của các nhà cung cấp, các chi phí sản xuất, hiệu suất máy móc, thiết bị, lao động, mức an toàn trong sản xuất,... Sự mở rộng nhu cầu về thông tin kiểm soát này cùng với những tiến bộ lớn trong công nghệ thông tin của thế kỷ XXI đã giúp cho việc tiếp nhận số lượng lớn các thông tin và xử lý dữ liệu nhanh chóng, phân tích dữ liệu có chiều sâu theo các mục tiêu quản lý khác nhau, từ đó biến các BCSX trở thành công cụ đắc lực của quản lý, hỗ trợ việc ra quyết định trong hệ thống sản xuất.
* Các chức năng của BCSX trong DN bao gồm:
* Phân loại BCSX:
Tùy theo quy mô và đặc điểm, mỗi DN sẽ có những loại BCSX riêng, tuy nhiên phần lớn sẽ sẽ được chia thành những loại báo cáo sau:
Hệ thống thông tin quản lý là tập hợp các thành phần có liên quan với nhau nhằm thu thập, xử lý, lưu trữ, tổ chức, truy xuất, quản lý và cung cấp thông tin hỗ trợ hoạt động kinh doanh, ra quyết định và thực hành trong một tổ chức (Laudon và Laudon, 2007; O'Brien, 2003).
Sprague và Carlson (1982) đã giải nghĩa thuật ngữ HTTTQL (tiếng Anh: Management Information System -MIS) theo những đặc điểm sau:
Một HTTTQL được coi là một tập hợp các thủ tục của tổ chức, cùng với các công cụ như phần cứng và phần mềm, hướng tới việc trình bày thông tin để ra quyết định (Bertrand, J. W. M., & Wortmann, J. C. 1981). Trong thiết kế của HTTTQL sẽ phải trả lời 2 câu hỏi: thông tin nào sẽ được trình bày và làm thế nào để xử lý và lưu trữ thông tin, (Lundeberg và cộng sự, 1979).
Các thành phần cơ bản của hệ thống thông tin gồm: phần cứng, phần mềm, dữ liệu, thủ tục và con người. Năm thành phần này có tính đối xứng. Các thành phần ngoài cùng, phần cứng và con người đều là tác nhân, có thể thực hiện hành động. Tiếp theo, phần mềm và thủ tục đều là các bộ hướng dẫn: phần mềm hướng dẫn cho phần cứng và thủ tục để hướng dẫn người dùng. Cuối cùng, dữ liệu là cầu nối giữa phía máy tính và phía con người (Kroenke, 2007). BCSX chính là cầu nối duy nhất thể hiện các dữ liệu đó và là yếu tố then chốt để quyết định các hành động tiếp theo của con người.
Laudon & Laudon (2008) chia HTTTQL thành 4 loại chính, cụ thể, tương ứng với từng cấp độ tổ chức, bao gồm: hệ thống xử lý giao dịch; hệ thống thông tin quản lý, hệ thống hỗ trợ quyết định và hệ thống hỗ trợ điều hành. Trong đó, hệ thống thông tin quản lý phục vụ cấp quản lý của tổ chức, cung cấp cho người quản lý các báo cáo và thường xuyên truy cập trực tuyến vào lịch sử cũng như hoạt động hiện tại của tổ chức. HTTTQL chủ yếu phục vụ các chức năng lập kế hoạch, kiểm soát và ra quyết định ở cấp quản lý. Nói chung, các thông tin được thu thập, xử lý và cung cấp cho các cấp quản lý dưới dạng các báo cáo thường xuyên và báo cáo đột xuất (Robert D. Galliers and Dorothy E. Leidner, 2003). Theo thời gian, những thay đổi bên trong DN hoặc từ bên ngoài thị trường sẽ làm cho thiết kế cơ sở dữ liệu và các báo cáo đi kèm không còn phù hợp và dẫn đến yêu cầu về sự thay đổi trong các báo cáo khi đó (Robert D. Galliers and Dorothy E. Leidner, 2003).
Như vậy, BCSX là một cấu phần của HTTTQL của DN, đóng vai trò là nguồn thông tin có giá trị cho việc ra quyết định trong hệ thống sản xuất. BCSX cần bắt đầu từ bước thu thập thông tin ban đầu tại các vị trí cần kiểm soát để có báo cáo sơ cấp, sau đó xử lý tổng hợp để trở thành những dữ liệu phục vụ cho các mục tiêu quản lý khác nhau trong DN (các dữ liệu này còn gọi là các báo cáo thứ cấp). Dù xuất hiện bằng hình thức nào, bản cứng hay bản mềm thì BCSX cũng là một công cụ thể hiện những nội dung mà nhà quản lý cần quan tâm.
Để đánh giá chất lượng BCSX, có thể dựa vào nhiều yếu tố, nhưng 3 tiêu chí sau đây được xem là quan trọng nhất:
Tính chính xác: dữ liệu chính xác là yêu cầu cơ bản của chất lượng BCSX. Thông tin phải chính xác và tin cậy để làm cơ sở cho việc ra quyết định. Những sai sót trong lúc thu thập, hay trong tính toán hoặc nhập liệu sẽ dẫn đến những kết luận và quyết định sai lầm, hoạt động kém hiệu quả hoặc gây các tổn thất về mặt tài chính.
Tính đầy đủ: các BCSX phải đầy đủ dữ liệu cần thiết để đáp ứng các nhu cầu cụ thể khác nhau của người sử dụng. Thiếu dữ liệu hoặc thừa dữ liệu không liên quan sẽ làm giảm chất lượng của báo cáo. Thiếu dữ liệu sẽ khiến người đọc không thể nắm bắt được tình hình thực tế. Thừa những dữ liệu không liên quan sẽ gây choáng ngợp, khó nắm bắt cho người sử dụng và có thể dẫn tới hiểu sai báo cáo, đưa ra những quyết định sai lầm.
Tính kịp thời: BCSX cần cung cấp thông tin cần thiết một cách kịp thời cho việc ra quyết định quản lý. Nếu báo cáo chậm có thể dẫn đến việc bỏ lỡ cơ hội kinh doanh hoặc phát sinh các rủi cho cho hệ thống do sự chậm trễ này, ví dụ khi có nguy cơ cao về an toàn lao động hay an toàn cháy nổ mà không được báo cáo kịp thời để nhanh chóng xử lý loại bỏ kịp thời cho hệ thống thì sẽ dẫn tới hậu quả khôn lường. Việc tuân thủ thời hạn thực hiện các báo cáo là rất quan trọng.
Việc nâng cao chất lượng BCSX là yêu cầu luôn đặt ra cho HTTTQL của DN để đảm bảo các thông tin cần thiết cho việc ra các quyết định quản lý. Dưới đây là một số phương hướng để nâng cao chất lượng BCSX:
Các báo cáo nói chung và BCSX nói riêng ngày được coi là nguồn lực quan trọng nhất của DN - nguồn lực thông tin để giúp DN quản trị bài bản hơn và thích ứng với những thay đổi nhanh chóng đang diễn ra trong nền kinh tế hiện nay. Bài viết mới tập trung trên phương diện lý luận về vấn đề nghiên cứu mà chưa có nghiên cứu thực tiễn về thực trạng BCSX tại các DN Việt Nam hiện nay. Đây là điểm hạn chế của bài viết và cũng là hướng cần đẩy mạnh nghiên cứu trong tương lai để cải thiện năng lực quản trị cho các DN Việt Nam, góp phần hoàn thành những mục tiêu lớn của đất nước đã được đề ra trong Đại hội Đảng lần thứ XIII là đến năm 2030 Việt Nam là nước đang phát triển có nền công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao, đến năm 2045 Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
Improving the quality of production reports - The solution for management information systems of manufacturing enterprises
Master’s student Vu Tu Hoa
Assoc.Prof.Ph.D Tran Thi Bich Ngoc
Ph.D Nguyen Thi Xuan Hoa
School of Economics and Management, Hanoi University of Science and Technology
Abstract:
Management information systems are an important tool that support business leaders in making decisions. Production reports play an essential role in the management information system as they provide information on everything happening in the production processes, helping managers track and allocate resources, control quality, assess business performance, and identify existing problems. This paper presents a theoretical overview of production reports as a crucial tool for businesses to enhance their competitiveness in the context of today's global competition.
Keywors: production report, Management Information System, production system, enterprise.
[Tạp chí Công Thương - Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, Số 19 tháng 9 năm 2023]
Đề tài Nguồn vốn cho doanh nghiệp du lịch chuyển đổi số do ThS. Trần Thúy Nga (Trường Cao đẳng Du lịch Hà Nội) thực hiện.
Xem chi tiết(CHG) Ngày 14/11, tại Đà Nẵng, Cục kỹ thuật an toàn và Môi trường công nghiệp (Bộ Công Thương) phối hợp với Hiệp hội Công nghiệp môi trường Việt Nam tổ chức Hội nghị tập huấn “Nâng cao năng lực bảo vệ môi trường cho các cơ quan, doanh nghiệp khu vực miền Trung”.
Xem chi tiết(CHG) Ngày 14/11, Sở Công Thương phối hợp với Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ Logistics Việt Nam tổ chức Diễn đàn “Khu thương mại tự do Đà Nẵng - Động lực mới phát triển ngành logistics thành phố Đà Nẵng”.
Xem chi tiết(CHG) Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Long An đã có tân Bí thư Đảng ủy, Chính ủy Bộ Chỉ huy BĐBP tỉnh.
Xem chi tiếtBài báo nghiên cứu "Xu hướng tiêu dùng xanh trong phát triển bền vững tại Việt Nam" do TS. Nguyễn Thị Hạnh (Khoa Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, Trường Đại học Hải Phòng) thực hiện.
Xem chi tiết