TÓM TẮT:
Đánh giá từ người dân tỉnh Lạng Sơn sử dụng về dịch vụ ví điện tử cho thấy sự hài lòng với chất lượng và dịch vụ, đặc biệt là tính năng mới. Tuy nhiên, chương trình khuyến mại gặp thách thức về sự độc đáo và hiệu quả. Quảng bá trên phương tiện truyền thông được đánh giá cao, nhưng có người dùng lo ngại về sự xuất hiện quá mức. Vấn đề an toàn và bảo mật còn là điểm đánh giá cần cải thiện. Từ kết quả nghiên cứu, nghiên cứu này đã đề gia một số giải pháp từ phía doanh nghiệp cung cấp ví điện tử và từ phía nhà nước nhằm thúc đẩy phát triển ví điện tử trong thời gian tới.
Từ khóa: thanh toán, ví điện tử, tỉnh Lạng Sơn.
Theo xu hướng toàn cầu hóa, Việt Nam đang tích cực tham gia vào nền kinh tế quốc tế và vấn đề cạnh tranh trở nên ngày càng quan trọng trong mọi lĩnh vực. Cụ thể, trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 diễn ra, sự tiếp cận của ngành công nghệ thông tin và viễn thông đang có sức ảnh hưởng lớn đến lĩnh vực thương mại. Với sự lan tỏa của công nghệ, hệ thống thương mại điện tử tại Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là về chất lượng và dịch vụ. Sự nâng cao chất lượng và xuất hiện liên tục của sản phẩm và dịch vụ mới nhằm đáp ứng nhanh chóng nhu cầu ngày càng đa dạng của khách hàng, trong đó có sự gia tăng sử dụng dịch vụ ví điện tử. Ví điện tử đã thay đổi cách tương tác giữa khách hàng và doanh nghiệp. Không chỉ mở rộng các kênh truyền thống, nó còn tạo ra giao dịch linh hoạt mọi nơi và mọi lúc thông qua kênh trực tuyến. Các dịch vụ ví điện tử ngày càng đa dạng, tối ưu hóa tiện ích, giảm thời gian giao dịch và nâng cao chất lượng để đáp ứng nhu cầu cao của khách hàng. Việc này không chỉ mang lại lợi ích cho người tiêu dùng mà còn đóng góp vào phát triển của doanh nghiệp và xã hội.
Ví điện tử đã xuất hiện và phát triển ở nhiều quốc gia từ nhiều năm trước, với ví điện tử đầu tiên là Paypal, được thành lập vào năm 1999 và có khoảng 227 triệu người sử dụng trên toàn cầu. Tuy nhiên, ở Việt Nam, khá nhiều người vẫn còn mới mẻ với loại hình này do chỉ xuất hiện vài năm gần đây. Mặc dù đã có gần 30 ví điện tử được ra mắt tại Việt Nam, nhưng sự hiểu biết và sử dụng từ phía người tiêu dùng vẫn còn hạn chế. Dịch vụ ví điện tử ở đây đang trải qua quá trình đa dạng hóa và hoàn thiện để phản ánh xu hướng phát triển chung của công nghệ hiện đại. Xuất phát từ thực tiễn trên nghiên cứu này đánh giá sự hiểu biết của người dân tại tỉnh Lạng Sơn về tiện ích và ưu điểm của việc sử dụng ví điện tử, qua đó đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy sử dụng ví điện tử cho người dân tại tỉnh Lạng Sơn.
Dịch vụ ví điện tử, theo định nghĩa của Điều 4 Nghị định số 101/2012/NĐ-CP với sự bổ sung từ Khoản 1 Điều 1 Nghị định số 80/2016/NĐ-CP về thanh toán không sử dụng tiền mặt, được mô tả như sau: đó là một dịch vụ cung cấp cho khách hàng một tài khoản điện tử định danh, do các tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán thiết lập trên các phương tiện truyền tin (như chip điện tử, sim điện thoại di động, máy tính...). Tài khoản này cho phép lưu giữ giá trị tiền tệ, đảm bảo bằng giá trị tiền gửi tương đương với số tiền được chuyển từ tài khoản thanh toán của khách hàng tại ngân hàng, vào tài khoản đảm bảo thanh toán của tổ chức cung ứng dịch vụ ví điện tử theo tỷ lệ 1:1.
So với năm 2015 khi chỉ có 5 doanh nghiệp ví điện tử được cấp phép, thị trường ví điện tử tại Việt Nam đã có bước phát triển đáng kể, với hơn 40 nhà cung cấp tham gia, bao gồm không chỉ các "ông lớn" như MoMo, VNPAY, Moca, ShopeePay, ZaloPay, và Payoo, mà còn có sự gia nhập của nhiều tân binh như VinID, SenPay, 9Pay, MobiFone Pay, eM, SmartPay (Nguyễn Minh,2023). Điều này làm cho thị trường ví điện tử trở nên ngày càng sôi động và đa dạng, cung cấp nhiều lựa chọn cho người tiêu dùng, cũng như tạo ra sự cạnh tranh tích cực trong lĩnh vực thanh toán.
Ngoài những tính năng chung, một số doanh nghiệp cung cấp dịch vụ ví điện tử tại Việt Nam còn tiếp tục phát triển và mở rộng các tính năng mới cho ví điện tử. Điều này nhằm tối ưu hóa trải nghiệm của khách hàng, giúp họ có thể sử dụng ví điện tử một cách thông minh thay vì tiền mặt trong các hoạt động hàng ngày. Ngoài việc cung cấp các tính năng cơ bản như thanh toán tiền điện thoại, điện, nước, Internet, phí bảo hiểm, dịch vụ công, học phí, mua vé (tàu xe, máy bay), các ví điện tử còn kết nối chặt chẽ với các sàn thương mại điện tử như Lazada, Tiki, Shopee, Sendo, Zalora... Nhờ đó, khách hàng có thể tận hưởng trải nghiệm toàn diện và tiện ích đa dạng từ việc sử dụng ví điện tử. Nhằm đáp ứng những nhu cầu thiết yếu của khách hàng, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ ví điện tử ngày càng phát triển và tích hợp nhiều tính năng mới, bao gồm: (i) Đặt đồ ăn trực tuyến: Liên kết với các ứng dụng đặt đồ ăn trực tuyến, ví điện tử giúp khách hàng thanh toán món ăn một cách thuận tiện và nhận được nhiều ưu đãi từ các đối tác hợp tác; (ii) Thanh toán trực tiếp tại cửa hàng: Qua việc quét mã QR, người dùng ví điện tử có thể thanh toán tại các cửa hàng, nhà hàng mà không cần mang theo tiền mặt; (iii) Đặt phòng, nhà nghỉ, khách sạn: Ví điện tử hỗ trợ thanh toán khi đặt phòng qua các trang web hay ứng dụng chuyên về lưu trú, mang lại sự tiện lợi và những ưu đãi đặc biệt; (iv) Gửi quà mừng, thiệp mừng, lì xì: Người dùng có thể nhanh chóng gửi quà cho người thân và bạn bè trong các dịp đặc biệt như Tết, sinh nhật, mừng cưới thông qua dịch vụ gửi quà của ví điện tử; (v) Thanh toán bảo hiểm và các khoản vay tiêu dùng cá nhân: Hợp tác với các công ty tài chính, ví điện tử cho phép khách hàng nộp tiền bảo hiểm và trả các khoản vay tiêu dùng đúng thời hạn thông qua ứng dụng ví điện tử.
Trong phạm vi của nghiên cứu này, sử dụng phương pháp nghiên cứu toàn diện bằng cách kết hợp cả thu thập dữ liệu sơ cấp và thu thập dữ liệu thứ cấp. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc hiểu sâu hơn về đối tượng nghiên cứu và giải quyết các vấn đề nghiên cứu một cách toàn diện.
Trước hết, tác giả sẽ thực hiện thu thập dữ liệu sơ cấp thông qua các phương tiện như cuộc khảo sát, phỏng vấn, hoặc quan sát trực tiếp. Việc này giúp tiếp cận trực tiếp ý kiến, cảm nhận và hành vi của đối tượng nghiên cứu. Các phương pháp này cung cấp thông tin chi tiết và phong phú, giúp hiểu rõ hơn về ngữ cảnh và động lực đằng sau các hành vi và quan điểm của các cá nhân.
Hơn nữa, tác giả cũng sẽ sử dụng phương pháp thu thập dữ liệu thứ cấp để bổ sung thông tin và đánh giá kiến thức từ các nguồn có sẵn như tài liệu, báo cáo, sách, và nghiên cứu trước đó. Phương pháp này giúp xây dựng trên nền tảng kiến thức đã có, đồng thời đảm bảo rằng nghiên cứu đáp ứng đầy đủ và hiệu quả đối với các vấn đề cụ thể.
Bằng cách này, việc kết hợp cả hai phương pháp nghiên cứu sẽ mang lại cái nhìn toàn diện và chi tiết nhất về đối tượng nghiên cứu, từ các thông tin cụ thể thu thập trực tiếp đến việc hiểu rõ ngữ cảnh và kiến thức từ các nguồn thứ cấp. Điều này sẽ làm rõ chi tiết nghiên cứu, hỗ trợ quá trình phân tích và đưa ra kết luận có tính thuyết phục và ứng dụng cao.
Cỡ mẫu được quyết định dựa trên số lượng mục sử dụng trong bảng hỏi, theo công thức:
Trong đó n là kích thước mẫu, e là sai số được chấp nhận (5%), z là giá trị phân phối với mức độ tin cậy đã chọn (với mức độ tin cậy 95% thì z = 1,96), p là phần trăm ước tính của mẫu trong tổng thể, q = 1 - p. Với tổng thể không xác định, có thể chọn p = q = 50%, từ đó ta có cỡ mẫu n = 385. Để đảm bảo dữ liệu có độ tin cậy, quy mô mẫu được chọn bao gồm 524 người dân tại Lạng Sơn.
4.1. Tỷ lệ người dân sử dụng ví điện tử chia theo một số tiêu thức
Kết quả điều tra cho thấy: Momo là ví điện tử được nhiều người dân dùng nhất tại Lạng Sơn với tỷ lệ áp đảo các ví khác, chiếm 63,4%, tiếp theo lần lượt là Viettel Money, ZaloPay, ShopeePay,VNPay và AirPay.
Kết quả điều tra cho thấy tính năng nạp tiền điện thoại là lựa chọn hàng đầu của người dùng ví điện tử, chiếm tỷ lệ sử dụng cao nhất là 75.6%. Sự ưa chuộng này chủ yếu xuất phát từ sự tiện lợi khi người dùng có thể mua thẻ điện thoại ngay trên ví điện tử mọi lúc, mọi nơi, mà không cần phải đến các điểm giao dịch truyền thống. Thêm vào đó, tính năng này thường đi kèm với ưu đãi chiết khấu thanh toán, làm tăng sức hấp dẫn. Chức năng chuyển tiền đến số điện thoại hoặc tài khoản ngân hàng cũng được nhiều người ưa chuộng, chiếm tỷ lệ sử dụng là 57.82%. Tính năng này trên ví điện tử giúp người dùng chuyển tiền một cách miễn phí và nhanh chóng đến số điện thoại hoặc tài khoản ngân hàng chỉ qua vài thao tác đơn giản trên ứng dụng ví điện tử. Tuy nhiên, chỉ có 22.21% người dùng ví điện tử cho biết họ sử dụng để đặt vé máy bay, tàu, xe. Nguyên nhân chủ yếu được đề cập là sự hạn chế về liên kết giữa ví điện tử và các hãng vận chuyển, khiến cho khả năng thanh toán qua ví điện tử trong lĩnh vực này còn hạn chế.
Đánh giá về mức độ dễ sử dụng của sản phẩm
Qua phân tích thống kê, số liệu và bảng biểu, có thể thấy đa số mọi người đều đồng ý về độ dễ sử dụng của dịch vụ thanh toán ví điện tử. Đánh giá về mức độ dễ dàng cài đặt và truy cập, có hướng dẫn chi tiết để thực hiện của sản phẩm dịch vụ ví điện tử thì có 2,9% số người được khảo sát đưa ra ý kiến hoàn toàn không đồng ý; chỉ có 1,65% số phiếu là không đồng ý; 23,6% số người được hỏi đánh giá về mức độ dễ sử dụng của sản phẩm là mức bình thường; cao nhất là số phiếu cho rằng đồng ý với ý kiến trên với 53,36% ; và cuối cùng là 18,49% người hoàn toàn đồng ý về mức độ dễ dàng cài đặt và sử dụng của sản phẩm.
Đánh giá mức độ di động của sản phẩm
Đánh giá mức độ sản phẩm giúp khách hàng tiến hành thanh toán nhanh chóng mọi lúc mọi nơi: có 1,34% số người được khảo sát hoàn toàn không đồng ý với ý kiến dịch vụ ví điện tử giúp khách hàng tiến hành thanh toán nhanh chóng mọi lúc mọi nơi; có 2,9% số phiếu không đồng ý; 22,53% số người được hỏi đưa ra ý kiến đánh giá ở mức bình thường; có đến 56,78% số phiếu đánh giá đều đồng ý cho rằng dịch vụ thanh toán ví điện tử đã giúp họ tiến hành thanh toán nhanh chóng hơn; cuối cùng 16,45% số phiếu đưa ra ý kiến hoàn toàn đồng ý.
Về mức độ phù hợp của sản phẩm
Kết quả khảo sát cho thấy có sự chấp nhận đáng kể từ phía người dùng đối với việc sử dụng ví điện tử. Tỷ lệ người sử dụng đồng ý với độ phù hợp của sản phẩm khi đưa ra quyết định sử dụng là 38.28%, trong khi tỷ lệ hoàn toàn đồng ý chiếm 33.34%. Ngoài ra, tỷ lệ bình thường là 17.89%, chỉ có 10% tổng số người được khảo sát không đồng ý và hoàn toàn không đồng ý. Kết quả này là minh chứng cho việc đa dạng và linh hoạt của ví điện tử trong việc đáp ứng nhu cầu thanh toán không sử dụng tiền mặt. Người dùng cho rằng sản phẩm này phù hợp với điều kiện sống và trình độ tiếp cận công nghệ của họ. Đặc biệt, ví điện tử được đánh giá là hữu ích trong việc thực hiện thanh toán tại các trung tâm thương mại, khu vui chơi giải trí và cả khi thực hiện giao dịch trực tuyến trên các trang thương mại điện tử và website bán hàng.
Đánh giá về tính an toàn bảo mật
Dựa vào phân tích số liệu khảo sát, có thể nhận thấy đa số người dùng đánh giá mức độ an toàn khi sử dụng dịch vụ ví điện tử ở mức trung lập. Cụ thể, tỷ lệ đánh giá hoàn toàn không đồng ý là 3.5%, không đồng ý là 17.53%, bình thường là 48.63%, đồng ý là 24.35% và hoàn toàn đồng ý là 5.9%.
Tỷ lệ này cho thấy mức độ đánh giá về an toàn của dịch vụ, trong đó tỷ lệ bình thường chiếm tỉ trọng cao nhất, tiếp theo là tỷ lệ đồng ý và cuối cùng là không đồng ý. Điều này có thể chỉ ra rằng yếu tố bảo mật của sản phẩm chưa đạt được sự chú ý đầy đủ từ phía người tiêu dùng và chưa có chiến lược cụ thể để cải thiện tính an toàn nhằm thu hút khách hàng. Điều này có ý nghĩa quan trọng, vì yếu tố bảo mật đóng vai trò quan trọng trong quyết định sử dụng sản phẩm hiện tại và trong tương lai của người tiêu dùng.
Báo cáo thị trường An toàn thông tin và Truyền thông Việt Nam năm 2022 của Viettel đưa ra rằng, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực ví điện tử tại Việt Nam đang đối mặt với một số thách thức chủ yếu liên quan đến An toàn Thông tin và Truyền thông. Một trong những vấn đề chính là hành lang pháp lý cho ứng dụng chưa được hoàn toàn và chính thức thông qua. Việc thiếu đi cơ quan chức năng cụ thể để đảm bảo an toàn tài sản của người dùng trong trường hợp tranh chấp cũng là một điểm đáng chú ý. Ngoài ra, thiếu hụt các chế tài và bộ luật quy định cụ thể về pháp lý cho ví điện tử làm tăng nguy cơ và rủi ro liên quan.
Mặt khác, tình trạng bảo mật của các dịch vụ ví điện tử vẫn còn nhiều hạn chế, mặc dù các đơn vị cung cấp đang cố gắng thiết lập các lớp bảo vệ tối ưu nhất cho khách hàng. Hiện vẫn có những vấn đề như đánh cắp thông tin và lừa đảo diễn ra và chúng khó có thể tránh khỏi hoàn toàn. Điều này đặt ra một thách thức lớn đối với việc xây dựng lòng tin và sự chấp nhận từ phía người dùng.
Đánh giá về tính marketing của sản phẩm
Dựa trên đánh giá của người sử dụng về việc sử dụng dịch vụ ví điện tử với sự thường xuyên có các chương trình khuyến mãi, có thể nhận thấy sự tích cực từ phía người tiêu dùng. Kết quả cho thấy hơn nửa số người sử dụng đồng ý và hoàn toàn đồng ý với việc dịch vụ ví điện tử thường xuyên có các chương trình khuyến mãi. Theo đó, chỉ có 1.25% số người cho biết họ hoàn toàn không đồng ý với việc dịch vụ không thường xuyên có khuyến mãi và 3.58% người cho biết họ không đồng ý. Trong khi đó, 21.89% người đánh giá là bình thường, 52.25% người cho rằng họ đồng ý và 21.03% người cho biết họ hoàn toàn đồng ý với việc dịch vụ thường xuyên được kích thích bằng các chương trình khuyến mãi. Sự tích cực này từ chính sách khuyến mãi có thể được coi là một yếu tố quan trọng, góp phần vào sự hài lòng và sự lựa chọn của người dùng đối với dịch vụ ví điện tử.
Đánh giá về chương trình khuyến mãi của dịch vụ ví điện tử thể hiện một hình ảnh phức tạp và đa dạng từ phía người tiêu dùng. Mặc dù có một phần nhỏ (3.75%) cho biết họ hoàn toàn không đồng ý với tính hấp dẫn cao của chương trình khuyến mãi và có 8.42% người cho rằng chương trình không đủ hấp dẫn, nhưng mức độ phản ứng tiêu cực này không chiếm tỷ lệ lớn. Điều đáng chú ý là có 48.86% người đánh giá là bình thường về mức độ hấp dẫn của chương trình khuyến mãi. Điều này có thể đồng nghĩa với việc người tiêu dùng đánh giá chương trình khuyến mãi là ổn định, không quá nổi bật nhưng cũng không phải là không hấp dẫn. Tuy nhiên, vẫn có phần lớn người tiêu dùng (29.96%) đồng ý với mức độ hấp dẫn của chương trình khuyến mãi. Điều này có thể cho thấy một phần đáng kể người dùng vẫn đánh giá cao sự hấp dẫn từ các chương trình khuyến mãi mà dịch vụ ví điện tử đưa ra. Hơn nữa, 9.01% người hoàn toàn đồng ý với ý kiến này, cho thấy một số người tiêu dùng thực sự đánh giá cao và đặt niềm tin vào chất lượng và tính hấp dẫn của các chương trình khuyến mãi của dịch vụ ví điện tử.
Đánh giá về việc sản phẩm dịch vụ ví điện tử có được quảng bá rộng rãi trên các phương tiện truyền thông và thông tin thể hiện sự đồng thuận lớn từ phía người tiêu dùng. Mức độ đồng thuận này chiếm tỷ lệ cao nhất, với 55.54% số người dùng hoàn toàn đồng ý với ý kiến này. Điều này cho thấy một phần lớn người sử dụng đánh giá cao sự quảng bá rộng rãi và có sự hiện diện mạnh mẽ của dịch vụ ví điện tử trên các phương tiện truyền thông. Hơn nữa, 26.67% số người cho rằng việc quảng bá trên các phương tiện truyền thông là bình thường, không có ý kiến đặc biệt tích cực hay tiêu cực. Điều này có thể cho thấy một số người tiêu dùng cảm thấy thông tin quảng bá là phổ biến và không tạo ra ấn tượng mạnh mẽ. Tuy chỉ số lượng nhỏ, nhưng có 2.63% và 5.67% số người dùng lựa chọn đồng ý và không đồng ý với việc quảng bá rộng rãi. Điều này có thể là do một số người có quan điểm riêng về sự quảng bá, có thể do họ không ưa thích sự xuất hiện quá nhiều trên các phương tiện truyền thông.
Dựa trên kết quả đánh giá từ người sử dụng về dịch vụ ví điện tử, có thể kết luận rằng chất lượng và dịch vụ của các dịch vụ này được đánh giá cao bởi người dân tại tỉnh Lạng Sơn. Sự nâng cao chất lượng, việc cung cấp tính năng mới và linh hoạt trong dịch vụ đã đáp ứng một cách tích cực nhu cầu ngày càng tăng của khách hàng. Tuy nhiên, có một số thách thức cần được vượt qua. Chương trình khuyến mại được người sử dụng đánh giá là không có tính đột phá, có thể là do sự giống nhau giữa các chương trình quảng cáo của các dịch vụ khác nhau. Điều này đặt ra thách thức về sự độc đáo và hấp dẫn của các chương trình khuyến mại. Người sử dụng cũng đánh giá cao việc quảng bá rộng rãi của dịch vụ trên các phương tiện truyền thông và thông tin. Tuy nhiên, có một số ý kiến chỉ ra rằng, sự xuất hiện quá mức có thể làm cho thông điệp trở nên bình thường hoặc không đặc sắc. Mặc dù người dùng có nhận thức về sự thâm nhập mạnh mẽ của công nghệ trong lĩnh vực thương mại, nhưng vẫn tồn tại những lo ngại về an toàn và bảo mật của dịch vụ ví điện tử. Điều này đặt ra một thách thức lớn cho các nhà cung cấp dịch vụ để tập trung và nâng cao các biện pháp bảo mật để xây dựng lòng tin từ phía người sử dụng.
Từ kết quả nghiên cứu, nghiên cứu này đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy việc thanh toán qua ví điện tử cho người dân trong thời gian tới cụ thể như sau:
Đối với doanh nghiệp cung cấp dịch vụ ví điện tử: Để phát triển dịch vụ ví điện tử và thu hút người sử dụng, các doanh nghiệp cần mở rộng mạng lưới ngân hàng liên kết, tăng thêm tính năng của ví, đơn giản hóa thao tác sử dụng và đẩy mạnh chiến lược truyền thông. Các doanh nghiệp cũng cần phát triển mạng lưới các địa điểm chấp nhận thanh toán bằng ví điện tử, đồng thời tăng cường hỗ trợ và chăm sóc khách hàng. Mở rộng mạng lưới liên kết hợp tác và củng cố hệ thống công nghệ cũng là những bước quan trọng. Cuối cùng, tăng trải nghiệm cho người tiêu dùng qua các chương trình ưu đãi và hoạt động quảng bá có thể giúp thúc đẩy sự chấp nhận và sử dụng ví điện tử.
Đối với nhà nước: Trong bối cảnh phương thức thanh toán không sử dụng tiền mặt ngày càng phổ biến, Việt Nam đang đối mặt với thách thức thiếu hệ thống pháp luật chi tiết cho các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ ví điện tử cũng như người tiêu dùng. Hiện nay, chỉ có một số văn bản quy định tổng quát, không đáp ứng đầy đủ cho sự phát triển của ngành này. Do đó cần thiết lập một nền tảng pháp lý rõ ràng, chi tiết, để đảm bảo lợi ích của doanh nghiệp và bảo vệ người tiêu dùng. Điều này không chỉ giúp quản lý tốt hơn mà còn tăng cường sự an toàn và bảo mật trong giao dịch thanh toán. Chính phủ nên thúc đẩy việc xây dựng và cập nhật các chính sách pháp lý nhằm đáp ứng đúng đắn với tình hình thị trường và tiến bộ công nghệ. Ngoài ra, để hỗ trợ sự phát triển của các doanh nghiệp ví điện tử, Chính phủ cần áp dụng chính sách giảm bớt thủ tục hành chính và cung cấp hỗ trợ tài chính. Việc này có thể bao gồm cơ chế vay vốn với lãi suất ưu đãi hoặc không lãi suất, giúp giảm gánh nặng tài chính và khuyến khích sự đổi mới trong ngành. Cuối cùng, tăng cường truyền thông thông qua các phương tiện truyền thông là quan trọng để nâng cao nhận thức của người tiêu dùng về ưu điểm của phương thức thanh toán không dùng tiền mặt. Chính phủ có thể sử dụng các kênh này để giới thiệu và giải thích chi tiết về việc sử dụng ví điện tử, đồng thời định hình nhận thức tích cực về sự tiện lợi và an toàn của việc này trong cuộc sống hàng ngày.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
The use of digital wallets in Lang Son province: Current situation and solutions
Master. MA XUAN KHANH
ETC DEVELOPMENT AND INVESTMENT JOIN STOCK COMPANY
Abstract:
This study evaluated the satisfaction of Lang Son province’s residents with digital wallets. The study found that Lang Son province’s residents were satisfied with digital wallets’ service quality and functions, especially new functions. However, promotional programs for these digital wallets face challenges in terms of uniqueness and effectiveness. In addition, digital wallets need to improve safety and security. Based on the study’s findings, some solutions from both e-wallet providers and governmental perspectives are proposed to foster the future development of digital wallets.
Keywords: payment, e-wallet, Lang Son province.
[Tạp chí Công Thương - Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, Số 2 tháng 2 năm 2024]
Nguồn: Tạp chí công thương
(CHG) Ngày 14/11, tại Đà Nẵng, Cục kỹ thuật an toàn và Môi trường công nghiệp (Bộ Công Thương) phối hợp với Hiệp hội Công nghiệp môi trường Việt Nam tổ chức Hội nghị tập huấn “Nâng cao năng lực bảo vệ môi trường cho các cơ quan, doanh nghiệp khu vực miền Trung”.
Xem chi tiết(CHG) Ngày 14/11, Sở Công Thương phối hợp với Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ Logistics Việt Nam tổ chức Diễn đàn “Khu thương mại tự do Đà Nẵng - Động lực mới phát triển ngành logistics thành phố Đà Nẵng”.
Xem chi tiết(CHG) Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Long An đã có tân Bí thư Đảng ủy, Chính ủy Bộ Chỉ huy BĐBP tỉnh.
Xem chi tiếtBài báo nghiên cứu "Xu hướng tiêu dùng xanh trong phát triển bền vững tại Việt Nam" do TS. Nguyễn Thị Hạnh (Khoa Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, Trường Đại học Hải Phòng) thực hiện.
Xem chi tiếtĐề tài Tự chủ đại học và những vấn đề thực tiễn triển khai tại các trường đại học công lập trực thuộc Bộ Công Thương do TS. Nguyễn Đồng Anh Xuân (Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội) thực hiện.
Xem chi tiết