TÓM TẮT:
Bài báo trình bày một phần kết quả nghiên cứu cắt ngang “Đánh giá thực trạng nghiên cứu phát triển, sản xuất trang thiết bị y tế trong nước và đề xuất giải pháp” do Viện Chiến lược và Chính sách Y tế thực hiện. Phương pháp nghiên cứu hệ thống hóa và phân tích các văn bản quy phạm pháp luật và tổng hợp tích ý kiến qua phiếu khảo sát 67 doanh nghiệp (DN) hiện đang sản xuất TTBYT tại Việt Nam. Kết quả cho thấy, sản xuất TTBYT được là một trong những lĩnh vực khuyến khích đầu tư nên Nhà nước đã đưa ra nhiều chính sách hỗ trợ và được thể hiện ở Luật Đầu tư (Luật số 61/2020/QH14) cũng văn bản quy phạm pháp luật khác. Tuy nhiên, trên thực tế, mới chỉ có 44,8% DN sản xuất TTBYT được ít nhất 1 sự hỗ trợ về thuế, nhưng chưa tiếp cận được với các hỗ trợ khác. Bên cạnh đó, vẫn còn một số bất cập và khoảng trống về chính sách như việc áp thuế GTGT chưa thống nhất, chưa có cơ chế ưu tiên sử dụng hàng trong nước sản xuất, chưa có quy định ưu tiên về giải quyết thủ tục cấp phép cho các DN sản xuất TTBYT trong nước.
Từ khóa: trang thiết bị y tế, chính sách khuyến khích hỗ trợ doanh nghiệp.
Việt Nam là thị trường trang thiết bị y tế (TTBYT) lớn thứ 9 trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, với quy mô thị trường TTBYT đạt 1,4 tỷ USD (2019) lên 2 tỷ USD (2023) và tăng trưởng nhanh nhất ở khu vực châu Á, với tốc độ tăng trưởng ổn định khoảng 10,6%/năm (CARG) trong giai đoạn 2013-2018 và dự báo tăng trưởng 10,2%/năm (CARG) trong 5 năm 2019-2023, nhưng 90% TTBYT sử dụng tại Việt Nam là nhập khẩu. Bài học kinh nghiệm thế giới cho thấy, việc phụ thuộc vào nguồn cung từ một số ít nước sản xuất có thể dẫn đến tình trạng khan hiếm, đứt gãy chuỗi cung ứng TTBYT toàn cầu - khi các nước này bùng phát dịch hoặc có chính sách cấm xuất khẩu. Do đó, chiến lược tự chủ về TTBYT đã được Đảng, Nhà nước, Chính phủ quan tâm từ rất sớm. Trong Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 25/10/2017 của BCHTW Đảng khóa XII đã nhấn mạnh nhiệm vụ “Đẩy mạnh phát triển ngành Dược và TTBYT” và “Khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư sản xuất thuốc, vắc xin, sinh phẩm, thiết bị, vật tư y tế...”. Nhằm cung cấp thông tin cho Chính phủ, Bộ Y tế trong quá trình dự thảo, thực thi “Đề án Phát triển công nghiệp sản xuất TTBYT trong nước” và chuẩn bị cho xây dựng Luật TTBYT, Viện Chiến lược và Chính sách Y tế đã thực hiện nghiên cứu “Đánh giá thực trạng nghiên cứu phát triển, sản xuất trang thiết bị y tế trong nước và đề xuất giải pháp”. Bài báo trình bày một phần kết quả của nghiên cứu về các cơ chế chính sách của Nhà nước khuyến khích đầu tư sản xuất TTBYT và khả năng tiếp cận của doanh nghiệp (DN) sản xuất với các chính sách hỗ trợ.
Nghiên cứu sử dụng thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang, kết hợp phương pháp định lượng và định tính. Nghiên cứu được triển khai từ tháng 9/2022 đến tháng 9/2023. Kết quả của bài báo dựa trên phương pháp: (1) Tổng quan tài liệu thông qua hệ thống hóa và phân tích các văn bản quy phạm pháp luật quy định về các chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư sản xuất TTBYT trong nước của Nhà nước; (2) Khảo sát ý kiến của các DN đang sản xuất TTBYT tại Việt Nam bằng phiếu khảo sát. Có 67 DN được lựa chọn chủ đích theo loại hình, quy mô và thời gian hoạt động của DN, để trả lời phiếu khảo sát liên quan đến việc tiếp cận và thụ hưởng các chính sách khuyến khích đầu tư, hỗ trợ sản xuất TTBYT tại Việt Nam. Các số liệu định lượng được nhập bằng EpiData và làm sạch, phân tích bằng phần mềm Stata 16.0. Các số liệu định tính được phân tích theo nhóm vấn đề đã được xây dựng trước.
3.1. Các chính sách, quy định hỗ trợ DN đầu tư sản xuất
Theo Luật Đầu tư (Luật số 61/2020/QH14), sản xuất TTBYT là một trong những lĩnh vực Nhà nước khuyến khích đầu tư nên tất cả các DN không phân biệt quy mô, loại hình DN đều được hưởng như nhau các chính sách ưu đãi. Ưu đãi về thuế là ưu đãi lớn nhất các DN sản xuất TTBYT được hưởng từ chính sách thúc đẩy hỗ trợ sản xuất TTBYT trong nước, cụ thể gồm:
3.2. Thực trạng tiếp cận chính sách hỗ trợ, khuyến khích của các DN đầu tư sản xuất TTBYT
Nghiên cứu đã khảo sát đối với 67 DN, trong đó về loại hình, có 5 DN vốn nhà nước, 20 DN FDI và 42 DN vốn tư nhân trong nước. Về quy mô, có 41 DN nhỏ và siêu nhỏ, 6 DN vừa và 10 DN lớn. Về thời gian hoạt động, có 17 DN thành lập dưới 5 năm và 50 DN thành lập trên 5 năm.
Khảo sát tình hình tiếp cận các chính sách hỗ trợ về tài chính cho thấy, DN sản xuất TTBYT chưa tiếp cận được đầy đủ các chính sách hỗ trợ về tài chính đúng như quy định của Nhà nước. Chỉ có 44,8% DN được khảo sát tiếp cận được ít nhất 1 chính sách ưu đãi, khuyến khích về tài chính của nhà nước. Trong đó, nhóm DN tư nhân là nhóm gặp khó khăn nhất trong việc tiếp cận với các chính sách miễn giảm thuế và hỗ trợ tài chính (chỉ có 28,9% nhận được hỗ trợ). Doanh nghiệp FDI mặc dù đã có nguồn vốn từ nước ngoài nhưng lại tiếp cận tốt nhất với các hỗ trợ từ chính phủ Việt Nam (75% DN được hỗ trợ) (Bảng 1).
Bảng 1. Số lượng và tỷ lệ DN sản xuất TTBYT được miễn giảm thuế và hỗ trợ tài chính
|
DN nhà nước (n=5) |
DN FDI (n=20) |
DN tư nhân (n=42) |
Tổng (n=67) |
||||
n |
% |
n |
% |
n |
% |
n |
% |
|
DN tiếp cận ít nhất 1 chính sách ưu đãi, |
3 |
60,0 |
15 |
75,0 |
12 |
28,6 |
30 |
44,8 |
Trong đó: |
|
|
|
|
|
|
|
|
Thuế thu nhập DN |
0 |
- |
15 |
75,0 |
6 |
14,3 |
21 |
31,3 |
Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp |
0 |
- |
1 |
5,0 |
3 |
7,1 |
4 |
6,0 |
Thuế GTGT |
0 |
- |
0 |
- |
0 |
- |
0 |
- |
Thuế nhập để tạo tài sản cố định và nhập khẩu linh kiện, nguyên vật liệu chưa SX ở Việt Nam |
0 |
- |
0 |
- |
0 |
- |
0 |
- |
Thuế nhập khẩu vật tư linh kiện TTBYT thuộc dự án Chính phủ ưu tiên nghiên cứu, chế tạo |
0 |
- |
1 |
5,0 |
- |
- |
1 |
1,5 |
Cho vay vốn ưu đãi |
3 |
60,0 |
2 |
10,0 |
2 |
4,8 |
7 |
10,4 |
Hỗ trợ kinh phí nghiên cứu, phát triển khoa học công nghệ |
1 |
20,0 |
2 |
10,0 |
1 |
2,4 |
4 |
6,0 |
Nguồn: Tác giả
Phân tích chi tiết theo từng chính sách miễn giảm thuế áp đối với các DN sản xuất TTBYT cho thấy:
Tỷ lệ DN được hỗ trợ kinh phí nghiên cứu khoa học, chuyển giao kỹ thuật cũng rất thấp, chiếm 6% DN khảo sát. Trong khảo sát có 41 DN nhỏ và siêu nhỏ nhưng chỉ có 7 DN tiếp cận được với nguồn vay vốn ưu đãi.
Các hỗ trợ về quảng bá sản phẩm, đào tạo nguồn nhân lực và hỗ trợ thủ tục hành chính chưa DN nào được tiếp cận, mặc dù đã được quy định trong các văn bản của Nhà nước và đây là những khó khăn vướng mắc chính DN muốn được Nhà nước hỗ trợ.
Theo ý kiến 37 DN sản xuất TTBYT chưa được tiếp cận với các chính sách hỗ trợ của Nhà nước, nguyên nhân chính do các chính sách ưu đãi của Nhà nước đưa ra chưa phù hợp với nhu cầu của DN (chiếm 20,9%). Những khó khăn và nhu cầu hỗ trợ theo ý kiến của DN lại chủ yếu tập trung vào thử nghiệm lâm sàng và cải cách thủ tục hành chính trong cấp phép sản phẩm TTBYT đủ điều kiện sản xuất chứ lại không phải là hỗ trợ miễn giảm thuế và tài chính. Bên cạnh đó, khoảng 10% DN không tiếp cận được thông tin về chính sách ưu đãi. Theo các DN này, hiện nay chưa có bộ phận hỗ trợ cung cấp thông tin, tư vấn về quy trình thủ tục cho DN (Bảng 2).
Bảng 2. Những lý do DN không tiếp cận với các chính sách hỗ trợ nào của Nhà nước
|
DN nhà nước (n=2) |
DN FDI (n=5) |
DN tư nhân (n=30) |
Tổng (n=37) |
||||
n |
% |
n |
% |
n |
% |
n |
% |
|
Chính sách ưu đãi không phù hợp với nhu cầu của DN |
2 |
40,0 |
1 |
5,0 |
11 |
26,2 |
14 |
20,9 |
Quy trình, thủ tục xét duyệt phức tạp |
0 |
0 |
0 |
0 |
4 |
9,5 |
4 |
6,0 |
Không có thông tin |
0 |
0 |
1 |
5,0 |
6 |
14,3 |
7 |
10,4 |
Nguồn: Tác giả
Theo hướng dẫn tại Thông tư số 26/2015/TT-BTC ngày 27/2/2015 của Bộ Tài chính, các TTBYT nhập khẩu, sản xuất, gia công thuộc danh mục hàng hóa chuyên ngành do Bộ Y tế quản lý (Thông tư số 14/2018/TT-BYT ngày 15/5/2018) sẽ được ưu đãi áp thuế xuất GTGT là 5%. Tuy nhiên, các doanh nghiệp sản xuất TTBYT trong nước vẫn chịu thuế GTGT khi nhập khẩu nguyên liệu đầu vào là 10%. Tức, trong khi DN nhập khẩu TTBYT nguyên chiếc chỉ chịu thuế GTGT 5% thì các DN sản xuất sẽ phải chịu 10% thuế GTGT của nguyên liệu đầu vào và 5% thuế suất. Với các DN nhập khẩu nguyên liệu đầu vào là nhựa còn phải chịu thêm thuế, phí, bảo vệ môi trường. Các chính sách hỗ trợ miễn thuế và hỗ trợ tài chính thường tập trung vào giai đoạn đầu khi DN mới đầu tư sản xuất chứ chưa có chính sách khuyến khích lâu dài. Đây là rào cản lớn ảnh hưởng đến sự canh trạnh về giá của các DN sản xuất trong nước với DN buôn bán TTBYT nguyên chiếc; từ đó tác động tiêu cực chính sách khuyến khích đầu tư sản xuất trong nước.
Ngoài miễn giảm thuế hiện nay, chưa có các chính sách hỗ trợ khác cho DN sản xuất TTBYT như các chính sách ưu tiên sử dụng hàng trong nước, ưu tiên trong việc xét duyệt thầu, chưa có có sự hỗ trợ về thử nghiệm, thử nghiệm lâm sàng TTBYT. Các đơn vị nghiên cứu, phát triển TTBYT không thuộc diện được hỗ trợ.
Nhà nước cũng chưa có các giải pháp cải cách thủ tục hành chính như rút ngắn thời gian, rút ngắn nguy trình, ưu tiên xét duyệt sớm khi cấp phép cơ sở và sản phẩm TTBYT đủ điều kiện sản xuất. Việc này vừa làm giảm khả năng cạnh trạnh, đồng thời ảnh hưởng đến chi phí và thời gian sản xuất của DN.
5.1. Kết luận
Sản xuất TTBYT là một trong những lĩnh vực khuyến khích đầu tư nên Nhà nước đã đưa ra nhiều chính sách hỗ trợ và được thể hiện ở Luật Đầu tư (Luật số 61/2020/QH14) cũng văn bản quy phạp pháp luật khác. Đồng thời, miễn giảm các loại thuế (thuế đất phi nông nghiệp, thuế thu nhập DN, thuế nhập khẩu, thuế GTGT), đây là hỗ trợ lớn nhất của Nhà nước dành cho các doanh nghiệp sản xuất TTBYT.
Trên thực tế, chỉ có 44,8% DN sản xuất TTBYT tiếp cận được với ít nhất một hỗ trợ về thuế. Tất cả các DN đều chưa tiếp cận được với các hỗ trợ khác như quảng bá sản phẩm, phát triển thị trường, cũng như thử nghiệm lâm sàng TTBYT.
Hiện, vẫn còn một số bất cập và “khoảng trống” về chính sách hỗ trợ như việc áp thuế GTGT chưa thống nhất, chưa có cơ chế ưu tiên sử dụng hàng trong nước sản xuất, chưa có quy định ưu tiên về giải quyết thủ tục cấp phép cho các DN sản xuất TTBYT trong nước. Điều này vừa làm giảm khả năng cạnh tranh, vừa tăng chi phí và thời gian sản xuất của DN.
5.2. Khuyến nghị
Cần hoàn thiện các cơ chế chính sách hỗ trợ đầu tư sản xuất TTBYT trong nước theo đúng nhu cầu, mong muốn của DN, cụ thể: bổ sung các quy định phù hợp về miễn giảm thuế GTGT, hỗ trợ thử nghiệm lâm sàng, chính sách ưu tiên sử dụng hàng trong nước. Đồng thời, có các giải pháp thông tin, quảng bá và hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận được với các chính sách hỗ trợ, ưu đãi của Nhà nước.
Tài liệu tham khảo:
Ngày nhận bài: 2/10/2023
Ngày phản biện đánh giá và sửa chữa: 7/10/2023
Ngày chấp nhận đăng bài: 15/10/2023
Thông tin tác giả:
The current access of domestic medical equipment manufacturers to investment and business support policies in Vietnam
Ph.D Nguyen Thi Minh Hieu1
Mai Xuan Thu1
Trinh Ngoc Thanh1
Dang Quoc Nghia1
Nguyen Minh Anh1
Pham Thi Hue1
Tran Ngoc Anh1
Khuong Anh Tuan1
1Institute of Health Strategy and Policy, Ministry of Health
Abstract:
This paper presents some results of the cross-sectional study entitled "Assessing the current research, development, and production of domestic medical equipment and solutions" conducted by the Institute of Health Strategy and Policy. This study reviewed and analyzed legal documents and opinions collected through surveying 67 medical equipment manufacturing enterprises. The study’s results show that medical equipment production is one of the fields encouraged by the Vietnamese government to attract investment, so the state has introduced many support policies, including the Law on Investment (Law No. 61/2020/QH14). However, only 44.8% of surveyed medical equipment manufacturing companies received at least one tax support. In addition, there are still some policy gaps, such as inconsistent VAT policies, no mechanism to prioritize the use of domestically produced goods, and no priority regulations on handling licensing procedures for domestic medical equipment manufacturers.
Keywords: medical device, business suport policies.
Bài báo nghiên cứu "Kinh nghiệm về tổ chức bộ máy ngành Hải quan của một số quốc gia" do ThS. Nguyễn Trà My (Trường Đại học Sunderland London Campus, Vương quốc Anh) thực hiện.
Xem chi tiếtĐề tài Giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ngành Tài chính ngân hàng do ThS. Đặng Thu Trang (Khoa Tài chính – Ngân hàng & Bảo hiểm - Trường Đại học Kinh tế kỹ thuật công nghiệp) thực hiện.
Xem chi tiếtĐề tài Nguồn vốn cho doanh nghiệp du lịch chuyển đổi số do ThS. Trần Thúy Nga (Trường Cao đẳng Du lịch Hà Nội) thực hiện.
Xem chi tiết(CHG) Ngày 14/11, tại Đà Nẵng, Cục kỹ thuật an toàn và Môi trường công nghiệp (Bộ Công Thương) phối hợp với Hiệp hội Công nghiệp môi trường Việt Nam tổ chức Hội nghị tập huấn “Nâng cao năng lực bảo vệ môi trường cho các cơ quan, doanh nghiệp khu vực miền Trung”.
Xem chi tiết(CHG) Ngày 14/11, Sở Công Thương phối hợp với Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ Logistics Việt Nam tổ chức Diễn đàn “Khu thương mại tự do Đà Nẵng - Động lực mới phát triển ngành logistics thành phố Đà Nẵng”.
Xem chi tiết