TÓM TẮT:
Nghiên cứu sử dụng mô hình trọng lực để xác định các yếu tố tác động đến xuất khẩu (XK) hàng may mặc của Việt Nam (VN). Kết quả cho thấy, GDP của nước nhập khẩu (NK), dân số nước NK, khoảng cách địa lý giữa VN và nước NK, tỷ giá hối đoái giữa đồng tiền nước NK và đồng tiền của VN, lãi suất cho vay của VN, tỷ lệ nội địa hóa nguyên liệu hàng may mặc của VN và FTA là những yếu tố ảnh hưởng đến XK hàng may mặc của Việt Nam. Nghiên cứu cũng đề xuất 2 nhóm giải pháp cơ bản đối với cơ quan quản lý nhà nước và đối với doanh nghiệp sản xuất và XK hàng may mặc, nhằm thúc đẩy XK hàng may mặc của Việt Nam trong thời gian tới.
Từ khóa: xuất khẩu, hàng may mặc, mô hình trọng lực, chính sách thương mại.
Tại Đại hội lần thứ VI của Đảng năm 1986 đã xác định XK hàng hóa là một trong ba mặt trận của nền kinh tế thời kỳ đổi mới. Cùng với sự thay đổi trong chính sách đối ngoại và hội nhập quốc tế, VN đã trở thành một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng XK lớn trên thế giới với tốc độ tăng trưởng XK trung bình hơn 17%/năm, làm cho vị trí của nước ta trên bản đồ thương mại toàn cầu cũng có sự vươn lên mạnh mẽ. Trong đó, ngành hàng May mặc trở thành một trong những ngành hàng XK chủ lực và nắm giữ vai trò quan trọng đối với kinh tế - xã hội. Ngành hàng này đã XK vào 66 quốc gia và vùng lãnh thổ, cùng với đó là số mặt hàng duy trì khoảng 47 - 50 mặt hàng vào thị trường toàn cầu và chiếm tỷ trọng lớn trong XK.
Để đạt được các kết quả thành công trong hoạt động XK hàng may mặc, đòi hỏi các chủ thể là Nhà nước, các doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc XK, cần xem xét các yếu tố tác động đến XK ngành hàng này, tạo tiền đề đưa ra các giải pháp, phương hướng triển khai và vận dụng một cách có hiệu quả. Mặc dù, trên thực tế, đã có một số công trình nghiên cứu tìm hiểu về điều này. Tuy nhiên, nhìn chung, các nghiên cứu phân tích về tác động của các yếu tố tới XK hàng may mặc tại VN vẫn còn hạn chế, chủ yếu là nghiên cứu về XK hàng hóa nói chung.
Từ khoảng trống đó, nhóm tác giả nhận thấy cần phải nghiên cứu, phân tích thực trạng XK hàng may mặc của VN giai đoạn 2008 - 2023, sử dụng mô hình trọng lực cùng với dữ liệu thu thập trong giai đoạn 2008 - 2022 để phân tích tác động của các yếu tố đến XK hàng may mặc của VN, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm thúc đẩy XK hàng may mặc cho giai đoạn 2024 - 2030.
Về tốc độ tăng trưởng và kim ngạch XK hàng may mặc của VN: giai đoạn 2008 - 2023, XK hàng may mặc VN đã có những bước phát triển đáng kể với tốc độ tăng trưởng hàng may mặc XK liên tục tăng qua các năm. Kim ngạch XK hàng may mặc của VN giai đoạn 2008 - 2023 có xu hướng tăng trưởng tương đối ổn định, với mức tăng trưởng trung bình đạt khoảng 11%/năm (Biểu đồ 1). Năm 2008, kim ngạch XK hàng may mặc của VN đạt khoảng 8.7 tỷ USD. Đến năm 2023 đạt 32.1 tỷ USD, tăng gấp khoảng 3.7 lần so với năm 2008. Đáng chú ý, trong giai đoạn này kim ngạch XK hàng may mặc của VN năm 2020 có sự sụt giảm so với năm 2019. Lý do tác động đến sự suy giảm này là do những tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19 đến nền kinh tế thế giới, làm đứt gãy chuỗi cung ứng, thu hẹp thị trường tiêu thụ các sản phẩm may mặc dẫn tới nhu cầu sản phẩm may mặc giảm sút mạnh. Đến năm 2021, kim ngạch XK hàng may mặc của VN đã nhanh chóng phục hồi và tăng trưởng trở lại. Dịch Covid-19 vẫn còn ảnh hưởng, nhưng đến thời điểm này, các doanh nghiệp đã dần thích nghi hơn và tìm được nhiều cơ hội phát triển hơn trong giai đoạn khủng hoảng này (Biểu đồ 2).
Về thị phần và thị trường XK: Theo Báo cáo thống kê thương mại thế giới năm 2021 của WTO cho biết, VN đã vượt qua Bangladesh về XK hàng may mặc, là quốc gia XK hàng may mặc lớn thứ hai trên thế giới năm 2020, với giá trị XK đạt khoảng 29 tỷ USD. Bên cạnh đó, thị trường XK hàng may mặc chính của VN đang ngày càng đa dạng, với sự tham gia của nhiều nước khác nhau. Nhìn chung thị trường XK hàng may mặc của VN vẫn chủ yếu là quốc gia phát triển. Năm 2022, Mỹ là thị trường tiêu thụ hàng may mặc VN lớn nhất với kim ngạch XK hàng may mặc VN sang Mỹ lên tới 17.76 tỷ USD, chiếm hơn 50.24% tổng kim ngạch XK hàng may mặc. Tính chung cả năm 2022, XK hàng may mặc của VN sang các thị trường chủ lực như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc… vẫn tăng khá so với năm 2021. Tuy nhiên, kim ngạch XK hàng may mặc của VN sang một số thị trường như Trung Quốc, Nga… lại giảm do chưa phục hồi sau đại dịch Covid-19. Đáng chú ý, so với thời điểm trước dịch Covid-19, XK hàng may mặc của VN sang các thị trường Canada, Australia... lại tăng trưởng ở mức cao, đều đạt hai con số (Bảng 2).
Bảng 2. Thị trường tiêu thụ hàng may mặc chính của Việt Nam năm 2022
Thị trường chủ yếu |
Năm 2022 |
Tỷ trọng XK (%) |
||
Kim ngạch (triệu USD) |
So với năm 2021 (%) |
Năm 2022 |
Năm 2021 |
|
Tổng |
35346 |
15.35 |
100 |
100 |
Mỹ |
17758 |
8.34 |
50.24 |
53.57 |
Nhật Bản |
3931 |
25.19 |
11.12 |
10.25 |
Hàn Quốc |
3268 |
12.53 |
9.25 |
9.49 |
Trung Quốc |
984 |
-1.79 |
2.78 |
3.27 |
Canada |
1348 |
42.65 |
3.81 |
3.09 |
Đức |
1093 |
33.62 |
3.09 |
2.67 |
Hà Lan |
1077 |
44.56 |
3.05 |
2.43 |
Anh |
806 |
34.78 |
2.28 |
1.95 |
Pháp |
694 |
20.07 |
1.96 |
1.89 |
Bỉ |
509 |
24.45 |
1.44 |
1.34 |
Australia |
447 |
28.45 |
1.26 |
1.14 |
Nga |
223 |
-34.79 |
0.63 |
1.12 |
Nguồn: UN Comtrade
Về cơ cấu chủng loại hàng may mặc XK của VN: XK các chủng loại hàng như Jacket, quần áo vest, áo sơ mi… là các mặt hàng giảm trong giai đoạn Covid-19, nay đã tăng mạnh và hồi phục trở lại. Trong năm 2022, áo jacket là mặt hàng XK hàng đầu của VN, chiếm 19.15% tổng kim ngạch XK. Áo thun xếp thứ hai, chiếm 18.84% tổng kim ngạch XK (Bảng 3).
Bảng 3. Chủng loại hàng may mặc xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam năm 2022
Chủng loại chủ yếu |
Năm 2022 |
Tỷ trọng XK năm 2022 (%)
|
|
Kim ngạch (triệu USD) |
So với năm 2021 (%) |
||
Tổng |
35346 |
14.69 |
100 |
Áo Jacket |
6767.99 |
30.87 |
19.15 |
Áo thun |
6660.61 |
14.38 |
18.84 |
Quần |
6540.26 |
13.86 |
18.50 |
Quần áo trẻ em |
2761.61 |
11.02 |
7.81 |
Vải |
2326.00 |
-10.23 |
6.58 |
Áo sơ mi |
2171.09 |
32.01 |
6.14 |
Đồ lót |
2111.05 |
4.51 |
5.97 |
Quần Short |
1556.86 |
15.89 |
4.40 |
Váy |
1486.36 |
33.98 |
4.21 |
Quần áo bảo hộ lao động |
604.15 |
9.47 |
1.71 |
Vest |
332.23 |
71.56 |
0.94 |
Nguồn: Vitas
Nhóm tác giả sử dụng mô hình trọng lực để ước tính tác động của các yếu tố đối với XK hàng may mặc của Việt Nam. Phương trình ước lượng như sau:
Kỳ vọng về dấu của các biến như sau: Biến GDP đại diện cho khả năng tiêu thụ của nước ngoài về hàng may mặc NK. Khi GDP tăng sẽ làm tăng cầu NK và tác động tích cực đến XK hàng may mặc của VN, vì vậy hệ số β1 > 0. Dân số của nước NK làm tăng cầu về mặc hàng may mặc XK của VN, vì vậy hệ số β2 > 0. Khoảng cách địa lý giữa nước XK và nước NK càng xa thì chi phí vận chuyển càng tăng, do đó xuất khẩu có xu hướng giảm, vì vậy hệ số β3 < 0. Thuế suất nước NK tăng làm giá cả của hàng hóa NK cao hơn, khả năng cạnh tranh của hàng NK tại quốc gia đó có xu hướng giảm mạnh, từ đó giảm lượng XK hàng may mặc tại VN, vì vậy hệ số β4 < 0. Biến đại diện cho tỷ giá hối đoái giữa đồng tiền nước NK và đồng tiền của VN, kỳ vọng về dấu của hệ số này là âm (β5 < 0), vì khi tỷ giá hối đoái giảm, tức đồng tiền của VN giảm giá so với đồng tiền của các nước NK, mặt hàng may mặc XK của VN sẽ rẻ hơn trên thị trường thế giới có thể dẫn đến tăng sản lượng XK mặt hàng may mặc. Lãi suất cho vay của VN càng tăng thì XK hàng may mặc của VN càng giảm. Khi lãi suất cho vay tăng, các doanh nghiệp sẽ hạn chế việc vay vốn hơn, làm giảm nguồn vốn để đầu tư cho công nghệ, máy móc, từ đó làm giảm sức cạnh tranh về mặt hàng may mặc, dẫn đến XK giảm. Vì vậy, hệ số β6 < 0. Tỷ lệ nội địa hóa nguyên liệu thấp có thể ảnh hưởng tiêu cực đến hàng XK may mặc của VN do khi nhập nhiều nguyên liệu từ các quốc gia khác để sản xuất hàng may mặc, điều này có thể tăng chi phí sản xuất, từ đó giảm XK. Vì vậy, kỳ vọng về dấu của hệ số β7 < 0. Việc VN tham gia các FTA tạo ra các ưu đãi về cắt giảm thuế quan giúp tăng trưởng XK hàng may mặc VN, vì vậy kỳ vọng về dấu của hệ số β8 > 0.
Chúng tôi sử dụng phương pháp ước lượng tác động ngẫu nhiên REM (Random Effects Model) để ước lượng các hệ số của phương trình (1) cho sản phẩm may mặc của Việt Nam. Hệ số β0 biểu thị tác động cố định của các yếu tố khác ngoài mô hình. Dữ liệu hồi quy của mô hình là dữ liệu bảng, khoảng thời gian là 15 năm và số quốc gia là 33.
Dữ liệu XK hàng may mặc được truy xuất từ Cơ sở dữ liệu Thống kê Thương mại Hàng hóa (UN Comtrade). Dữ liệu về GDP, dân số, tỷ giá hối đoái, lãi suất cho vay được truy xuất từ Nguồn dữ liệu mở của Ngân hàng Thế giới (data.worldbank.org). Dữ liệu về khoảng cách song phương được lấy từ trang web Distance Calculator. Thông tin về thuế được truy cập từ Cơ sở Dữ liệu Tích hợp của WTO (IDB) thông qua nền tảng trực tuyến Giải pháp Thương mại Tích hợp Thế giới (WITS). Việc lựa chọn mức thuế quan để đưa vào mô hình hồi quy được thực hiện trên cơ sở tuân theo quy tắc: thuế suất ưu đãi theo Hiệp định Thương mại song phương (PTA) sẽ được xem xét lựa chọn trước, nếu không có thông tin về thuế ưu đãi hoặc loại thuế này không được áp dụng thì sẽ thay thế bằng các mức thuế tối huệ quốc (MFN). Dữ liệu về tỷ lệ nội địa hóa nguyên liệu hàng dệt may được thu thập thông qua báo cáo chính thức của Bộ Công thương (https://moit.gov.vn/). Dữ liệu về FTA được lấy từ trang web https://trungtamwto.vn/ của Phòng Thương mại và Công nghiệp VN.
Kết quả mô hình hồi quy về tác động của các yếu tố đến XK hàng may mặc của Việt Nam được thể hiện ở Bảng 4. Từ kết quả hồi quy có thể đưa ra những nhận xét sau đây:
GDP của nước XK, dân số nước NK, khoảng cách địa lý giữa VN và nước NK, tỷ giá hối đoái giữa đồng tiền nước NK và đồng tiền của VN, lãi suất cho vay của VN, tỷ lệ nội địa hóa nguyên liệu hàng may mặc của VN và biến giả FTA có ảnh hưởng đến XK hàng may mặc của VN. Còn lại 1 biến giải thích không ảnh hưởng đến XK hàng may mặc của VN là thuế suất của nước NK. Đây cũng chính là điểm khác biệt so với rất nhiều nghiên cứu trước đó như Đỗ Thị Hòa Nhã & cộng sự (2019); Đỗ Thị Hương & cộng sự (2021). Lý giải cho điều này, trong những năm gần đây, dưới sức ép của trào lưu hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hóa thương mại, chức năng bảo hộ nền sản xuất trong nước của các quốc gia NK bằng thuế NK đang có xu hướng ngày càng giảm sút, cắt giảm dần và thay bằng các biện pháp phi thuế quan.
Bảng 4. Kết quả ước lượng mô hình
Biến |
Hệ số hồi quy |
P > |z| |
1.69586 |
0.000 |
|
-0.37110 |
0.000 |
|
-0.56179 |
0.000 |
|
|
0.02747 |
0.373 |
-0.20012 |
0.000 |
|
ln |
-0.41650 |
0.000 |
ln |
2.59412 |
0.000 |
-0.14183 |
0.002 |
|
C |
-29.60142 |
0.000 |
Nguồn: Kết quả hồi quy từ mô hình (1)
Cụ thể, GDP của nước NK ảnh hưởng thuận chiều với XK may mặc với hệ số là 1.7. Điều này có nghĩa là khi GDP của nước NK tăng thêm 1% thì XK hàng may mặc của VN tăng 1.7%. Kết quả nghiên cứu đạt được theo kỳ vọng ban đầu của nhóm tác giả và cùng dấu với kết quả của một vài nghiên cứu trước đó về các yếu tố ảnh hưởng đến XK hàng hóa nói chung.
Dân số nước NK có ảnh hưởng ngược chiều tới XK hàng may mặc của VN với hệ số là -0.56179; hệ số này cho biết khi dân số nước NK tăng lên 1% thì XK hàng may mặc của VN giảm 0.56179%. Điều này trái với dự đoán ban đầu về dấu cũng như các nghiên cứu trước đó (Mohamed A. Elshehawy & cộng sự, 2014; Bùi Thị Hồng Hạnh & cộng sự, 2017) cho rằng dân số nước NK có tác động tích cực đến XK.
Khoảng cách địa lý giữa VN và nước NK có ảnh hưởng ngược chiều tới XK hàng may mặc của VN với hệ số là -0.37110; hệ số này cho biết khi khoảng cách địa lý giữa VN và nước NK tăng lên 1% thì XK hàng may mặc của VN giảm 0.37110%. Kết quả này phù hợp với hầu hết các kết quả nghiên cứu trước đây và với dự đoán ban đầu của nhóm tác giả.
Tỷ giá hối đoái giữa đồng tiền nước NK và đồng tiền của VN tác động ngược chiều đến XK hàng may mặc của VN với hệ số là -0.20012, đúng với kỳ vọng ban đầu về dấu của hệ số. Đây là điểm tương đồng với nghiên cứu của Đỗ Thị Hương & cộng sự (2021), tuy nhiên lại trái ngược với các nghiên cứu Trần Trọng Đức & cộng sự (2021), Bùi Thị Hồng Hạnh & Quiting Chen (2015).
Lãi suất cho vay của VN với hệ số là -0.41650, kết quả chỉ ra biến giải thích này tác động ngược chiều đến XK hàng may mặc của VN hay khi lãi suất cho vay của VN tăng lên 1% thì XK hàng may mặc giảm 0.41650%. Kết quả nghiên cứu đạt được theo kỳ vọng ban đầu của nhóm tác giả và cùng dấu với kết quả của một vài nghiên cứu trước đó về ảnh hưởng của các chính sách hỗ trợ XK của Chính phủ đến XK (Harun & cộng sự, 2014; Vũ Thị Minh Ngọc & cộng sự, 2014).
Tỷ lệ nội địa hóa nguyên liệu hàng may mặc của VN có tác động thuận chiều đến XK hàng may mặc của VN. Cụ thể, từ kết quả phân tích, có thể thấy khi tỷ lệ nội địa hóa nguyên liệu hàng may mặc tăng lên 1% thì XK hàng may mặc của VN tăng 2.59412%. Như vậy, kết quả này hoàn toàn đúng theo kỳ vọng ban đầu về dấu của nhóm tác giả. Đây là điểm hoàn toàn mới so với các nghiên cứu trước đó về các yếu tố tác động đến XK hàng may mặc của VN. Các nghiên cứu trước đây hầu hết đều không đưa biến giải thích này vào mô hình nghiên cứu.
Biến giả FTA tác động ngược chiều đến XK hàng may mặc của VN với hệ số là -0.141834. Điều này cho thấy FTA có tác động tiêu cực đến XK hàng may mặc VN, trái với kỳ vọng về dấu ban đầu của nhóm tác giả, cũng như một vài nghiên cứu trước đó như Trần Trọng Đức & cộng sự (2021), Huỳnh Thị Diệu Linh & cộng sự (2019). Lý giải nguyên nhân cho việc FTA tác động ngược chiều có thể thấy đó là FTA có 2 hướng tác động: tạo lập thương mại và chuyển hướng thương mại. Trong trường hợp này thì tác động của chuyển hướng thương mại lớn hơn tạo lập thương mại do các quốc gia khác cùng tham gia FTA cũng có lợi thế cạnh tranh về công nghệ, nguyên liệu, quy trình sản xuất... trong sản xuất và XK hàng may mặc. Do đó, các quốc gia trong FTA sẽ có xu hướng NK hàng may mặc của các quốc gia đó thay vì NK hàng may mặc của VN. Bên cạnh đó, khi ký kết và tham gia FTA, thường có những yêu cầu khắt khe, hàng rào kỹ thuật, các điều khoản về môi trường gây ra sức ép, khó khăn cho một số quốc gia XK hàng may mặc, trong đó có cả VN, bởi chưa đủ điều kiện đáp ứng những quy định trong các FTA.
Dựa trên kết quả nghiên cứu đã phân tích, một số hàm ý chính sách được đề xuất nhằm hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng XK hàng may mặc tại VN, cụ thể như sau:
- Nâng cao chất lượng nguồn nguyên liệu đầu vào, cần phải chuyển đổi dần phương thức sản xuất từ gia công và FOB sang các hình thức như thiết kế trên ý tưởng có sẵn, sản xuất và bán thành phẩm và tiến tới hình thức tự thiết kế, sản xuất và bán thành phẩm.
Tuy nhiên, bài nghiên cứu còn tồn tại một số hạn chế nhất định:
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
A gravity model approach to the factors affecting Vietnam's garment exports
Luong Thi Minh Thu1
Bui Thi Ngoc Tu1
Pham Thi Thu Thuy1
Vu Quynh Trang1
Ph.D Nguyen Thi Thu Hien2
1Student, Thuongmai University
2Lecturer, Thuongmai University
ABSTRACT:
In this study, the gravity model was used to determine the factors affecting Vietnam's garment exports. The results showed that the importing country’s GDP, the importing country’s population, the geographical distance between Vietnam and the importing country, the exchange rate between the currency of the importing country and Vietnamese dong, the lending interest rate of Vietnam, the localization rate of Vietnam's garment materials, and free trade agreements all impact Vietnam's garment exports. The study proposed two basic groups of solutions for state management agencies and garment manufacturing and exporting companies to promote Vietnam's garment exports.
Keywords: export, garments, gravity model, trade policies.
[Tạp chí Công Thương - Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, Số 4 tháng 3 năm 2024]
Nguồn: Tạp chí công thương
Bài báo nghiên cứu "Kinh nghiệm về tổ chức bộ máy ngành Hải quan của một số quốc gia" do ThS. Nguyễn Trà My (Trường Đại học Sunderland London Campus, Vương quốc Anh) thực hiện.
Xem chi tiếtĐề tài Giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ngành Tài chính ngân hàng do ThS. Đặng Thu Trang (Khoa Tài chính – Ngân hàng & Bảo hiểm - Trường Đại học Kinh tế kỹ thuật công nghiệp) thực hiện.
Xem chi tiếtĐề tài Nguồn vốn cho doanh nghiệp du lịch chuyển đổi số do ThS. Trần Thúy Nga (Trường Cao đẳng Du lịch Hà Nội) thực hiện.
Xem chi tiết(CHG) Ngày 14/11, tại Đà Nẵng, Cục kỹ thuật an toàn và Môi trường công nghiệp (Bộ Công Thương) phối hợp với Hiệp hội Công nghiệp môi trường Việt Nam tổ chức Hội nghị tập huấn “Nâng cao năng lực bảo vệ môi trường cho các cơ quan, doanh nghiệp khu vực miền Trung”.
Xem chi tiết(CHG) Ngày 14/11, Sở Công Thương phối hợp với Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ Logistics Việt Nam tổ chức Diễn đàn “Khu thương mại tự do Đà Nẵng - Động lực mới phát triển ngành logistics thành phố Đà Nẵng”.
Xem chi tiết