TÓM TẮT:
Trong những năm gần đây, thị trường thương mại điện tử Việt Nam (TMĐT) ngày càng được mở rộng và hiện đã trở thành phương thức kinh doanh phổ biến được doanh nghiệp, người dân biết đến. Sự đa dạng về mô hình hoạt động, về đối tượng tham gia, về quy trình hoạt động và chuỗi cung ứng hàng hóa, dịch vụ với sự hỗ trợ của hạ tầng Internet và ứng dụng công nghệ hiện đại đã đưa TMĐT trở thành trụ cột quan trọng trong tiến trình phát triển kinh tế số của quốc gia. Tuy nhiên, nhìn chung, TMĐT Việt Nam vẫn đang còn rất nhiều thách thức và hạn chế để có thể đuổi kịp với nền TMĐT trên thế giới. Trong bài viết này, tác giả tiến hành phân tích thực trạng của TMĐT tại Việt Nam, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển mô hình này.
Từ khóa: thương mại điện tử, thị trường thương mại điện tử, phương thức kinh doanh, Việt Nam.
Ngày nay, thương mại điện tử (TMĐT) đã và đang trở thành lĩnh vực có ảnh hưởng cực kỳ quan trọng đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia. Sự phát triển của TMĐT không chỉ giúp các hoạt động kinh doanh thuận lợi mà còn cung cấp nhiều giá trị mới và đáp ứng những nhu cầu mới của các doanh nghiệp và người tiêu dùng. Chính vì vậy, mọi quốc gia trên thế giới đều quan tâm đến việc phát triển TMĐT. Có thể kể đến một số vai trò của TMĐT bao gồm: Thay đổi tính chất của nền kinh tế mỗi quốc gia và nền kinh tế toàn cầu, làm cho tính tri thức trong nền kinh tế ngày càng tăng lên, mở ra cơ hội phát huy ưu thế của các nước phát triển sau, để họ có thể đuổi kịp, thậm chí vượt các nước đi trước, rút ngắn khoảng cách về trình độ tri thức giữa các nước phát triển với các nước đang phát triển.
Trong những năm gần đây, thị trường TMĐT Việt Nam ngày càng được mở rộng và hiện đã trở thành phương thức kinh doanh phổ biến được doanh nghiệp, người dân biết đến. Sự đa dạng về mô hình hoạt động, về đối tượng tham gia, về quy trình hoạt động và chuỗi cung ứng hàng hóa, dịch vụ với sự hỗ trợ của hạ tầng Internet và ứng dụng công nghệ hiện đại đã đưa TMĐT trở thành trụ cột quan trọng trong tiến trình phát triển kinh tế số của quốc gia.
Mặc dù gặp những ảnh hưởng tiêu cực trong năm 2020 do đại dịch Covid-19, TMĐT Việt Nam vẫn có những bước tăng tốc mạnh mẽ, trở thành một trong những thị trường TMĐT tăng trưởng nhanh nhất trong khu vực Đông Nam Á. Theo Sách trắng Thương mại điện tử Việt Nam, năm 2020, tốc độ tăng trưởng của TMĐT đạt mức 18%, quy mô đạt 11,8 tỷ USD và là nước duy nhất ở Đông Nam Á có tăng trưởng TMĐT 2 con số. Theo tính toán của các tập đoàn lớn thế giới như Google, Temasek và Bain&Company, nhiều khả năng quy mô của nền kinh tế số Việt Nam sẽ vượt ngưỡng 52 tỷ USD và giữ vị trí thứ 3 trong khu vực ASEAN vào năm 2025.
Tuy nhiên, nguồn nhân lực của TMĐT nhìn chung vẫn còn thiếu và yếu, cũng như hạ tầng thương mại kỹ thuật cho TMĐT chưa thuận lợi, khiến TMĐT chưa tạo được sự tin tưởng cũng như chưa phát triển mạnh mẽ. Do vậy, việc xây dựng chiến lược phát triển TMĐT đóng vai trò quan trọng giúp TMĐT Việt Nam phát triển lành mạnh theo xu hướng phát triển của thế giới để các doanh nghiệp ứng dụng phương pháp kinh doanh này ngày càng lớn mạnh. Trên cơ sở đó, tác giả tiến hành phân tích thực trạng của TMĐT tại Việt Nam, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển TMĐT tại Việt Nam.
Thương mại điện tử là một khái niệm tương đối rộng, vì vậy nó có nhiều tên gọi khác nhau. Hiện nay có một số tên gọi phổ biến như: thương mại trực tuyến (online trade), thương mại không giấy tờ (paperless commerce) hoặc kinh doanh điện tử (e-business), tuy nhiên, tên gọi thương mại điện tử (e-commerce) được sử dụng nhiều nhất, được biết đến nhiều nhất và gần như được coi là quy ước chung để gọi hình thức thương mại giao dịch qua mạng internet. Hiện nay, định nghĩa TMĐT được rất nhiều tổ chức quốc tế đưa ra song chưa có một định nghĩa thống nhất về TMĐT. Nhìn một cách tổng quát, các định nghĩa về TMĐT được chia làm 2 nhóm:
Nhóm thứ nhất được hiểu theo nghĩa hẹp, trong đó TMĐT thể hiện qua việc các doanh nghiệp sử dụng các phương tiện điện tử và mạng Internet để mua bán hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp mình. Các giao dịch có thể giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp như mô hình của sàn TMĐT Alibaba; giữa doanh nghiệp với khách hàng cá nhân như mô hình của Amazon, Tiki, Lazada; hoặc giữa các cá nhân với nhau trên eBay. Một số quan điểm về TMĐT có thể kể đến như Ủy ban Thương mại điện tử của Tổ chức Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) năm 1988: “Thương mại điện tử là công việc kinh doanh được tiến hành thông qua truyền thông số liệu và công nghệ tin học kỹ thuật số”. Theo Cục thống kê Hoa Kỳ năm 2000, “TMĐT là việc hoàn thành bất kì một giao dịch nào thông qua một mạng máy tính làm trung gian mà bao gồm việc chuyển giao quyền sở hữu hay quyền sử dụng hàng hóa và dịch vụ”.
Nhóm thứ hai hiểu TMĐT theo nghĩa rộng, tức là không chỉ giới hạn riêng qua hai hoạt động mua và bán mà TMĐT bao gồm tất các các hoạt động kinh doanh thực hiện qua phương tiện điện tử, cụ thể qua 4 chữ MSDP, trong đó:
M - Marketing (có trang web, hoặc xúc tiến thương mại qua Internet)
S - Sales (có trang web có chức năng hỗ trợ giao dịch, ký kết hợp đồng)
D - Distribution (Phân phối sản phẩm số hóa trên mạng)
P - Payment (thanh toán qua mạng hay thông qua trung gian như ngân hàng)
Một số quan điểm về định nghĩa TMĐT theo nghĩa rộng có thể kể đến như: “TMĐT bao gồm các giao dịch thương mại liên quan đến các tổ chức và cá nhân dựa trên việc xử lý và truyền đi các dữ kiện đã được số hóa thông qua các mạng mở (như Internet) hoặc các mạng đóng có cổng thông với mạng mở (như AOL). Trong đó, hàng hóa và dịch vụ được đặt hàng qua mạng như thanh toán và phân phối thì có thể thực hiện ngay trên mạng hoặc không”.
Theo luật mẫu về TMĐT của Ủy ban Liên hợp quốc về Luật Thương mại quốc tế (UNCITRAL Model Law on Electronic Commerce), năm 1996, thuật ngữ “thương mại” (commerce) cần được diễn giải theo nghĩa rộng để bao quát các vấn đề phát sinh từ mọi quan hệ mang tính chất thương mại dù có hay không có hợp đồng. Các quan hệ mang tính thương mại bao gồm các giao dịch sau đây: bất cứ giao dịch nào về cung cấp hoặc trao đổi hàng hóa, dịch vụ; thỏa thuận phân phối; đại diện hoặc đại lý thương mại, ủy thác hoa hồng (factoring), cho thuê dài hạn (leasing); xây dựng các công trình; tư vấn, kỹ thuật công trình (engineering); đầu tư; cấp vốn, ngân hàng; bảo hiểm. Với quan điểm này, Liên Hợp quốc đã đưa ra định nghĩa về TMĐT là “việc thực hiện toàn bộ hoạt động kinh doanh bao gồm: marketing, bán hàng, phân phối và thanh toán”.
Tóm lại, mặc dù trên thế giới có nhiều cách hiểu khác nhau về TMĐT, nhưng nhìn chung đều thống nhất quan điểm cho rằng: TMĐT là hình thái hoạt động và trao đổi thông tin thương mại giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp với khách hàng, giữa các doanh nghiệp với các cơ quan quản lý nhà nước và giữa các cơ quan quản lý nhà nước với nhau bằng các phương pháp điện tử, diễn ra trên mạng Internet.
Cùng với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin, chủ yếu là tốc độ phát triển của internet, TMĐT ở Việt Nam đã có sự phát triển vượt bậc cả về quy mô, số lượng và chất lượng.
Về quy mô, tốc độ tăng trưởng TMĐT: Sau khi vượt qua đại dịch Covid-19, TMĐT Việt Nam tiếp tục phát triển nhanh và vững chắc trong năm 2022 và những năm tiếp theo. Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam (VECOM) đưa ra dự đoán này trên cơ sở khảo sát hàng nghìn doanh nghiệp trên cả nước và khả năng thích ứng linh hoạt của doanh nghiệp và người tiêu dùng trong đợt dịch Covid-19 lần thứ tư.
Trong 2 năm cao điểm của đại dịch TMĐT nước ta đã trải qua hai làn sóng. Làn sóng thứ nhất diễn ra trong giai đoạn bùng nổ đầu tiên của Covid-19 năm 2020. Làn sóng thứ hai của TMĐT diễn ra từ tháng 6 đến tháng 9/2021 trùng với đợt dịch thứ tư. Trong thời gian diễn ra hai làn sóng này toàn bộ hoạt động kinh tế - xã hội bị trì trệ, kinh doanh TMĐT bị tác động nghiêm trọng, nhưng đông đảo thương nhân đã nỗ lực chuyển đổi số để nắm bắt cơ hội kinh doanh mới. Đồng thời, người tiêu dùng trực tuyến tăng mạnh cả về số lượng và chất lượng. Làn sóng thứ hai cộng hưởng với làn sóng thứ nhất thúc đẩy TMĐT phát triển nhanh và vững chắc hơn.
Theo báo cáo của Bộ Công Thương, doanh thu TMĐT của Việt Nam năm 2021 ước đạt 13,7 tỷ USD, tăng 16% so với năm 2020 và chiếm 6,5% tổng doanh thu bán lẻ cả nước. Số liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy, năm 2022, TMĐT Việt Nam vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng trên 25% và đạt quy mô trên 20 tỷ USD. Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh là 2 thành phố dẫn đầu cả nước về tăng trưởng TMĐT. Theo báo cáo của Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh tiếp tục dẫn đầu xếp hạng Chỉ số Thương mại điện tử Việt Nam 2022 với 90,6 điểm. Đứng thứ hai là Hà Nội với 85,9 điểm và kém TP. Hồ Chí Minh 4,7 điểm. Đứng thứ ba trong bảng xếp hạng là Đà Nẵng với 36,6 điểm và có khoảng cách rất xa so với TP. Hồ Chí Minh và Hà Nội. Điểm trung bình của chỉ số năm nay là 20,4 điểm. Song vẫn còn khoảng cách rất lớn giữa hai đầu cầu kinh tế là Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh với các tỉnh thành còn lại. Điều này chứng tỏ tiềm năng phát triển TMĐT tại các tỉnh & nông thôn còn rất lớn (Hình 1).
Điều đáng chú ý về tốc độ phát triển TMĐT những năm gần đây mặc dù do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19, nhiều địa phương, tỉnh, thành trong cả nước phải thực hiện các biện pháp phòng chống dịch, cách ly xã hội, nhưng tốc độ tăng trưởng TMĐT vẫn được duy trì và có xu hướng gia tăng. Người dân và doanh nghiệp đã quen dần và thích nghi nhanh chóng với các hoạt động giao dịch TMĐT, nhiều người đã bỏ được thói quen mua hàng, giao dịch truyền thống, tiếp xúc trực tiếp, thay vào đó là các giao dịch gián tiếp, qua sàn TMĐT, thông qua nền tảng số như facebook, zalo, youtube, messenger…; nhiều hợp đồng thương mại được thực hiện thông qua nền tảng giao tiếp trực tuyến hội nghị như zoom, google meet,… Nhìn chung, thói quen mua hàng của người tiêu dùng Việt Nam cũng có những thay đổi tích cực. Từ việc chỉ quen với giao dịch kinh doanh truyền thống, mặt đối mặt, được cầm, ngắm và có thể được thử sản phẩm, nay họ đã dần tiếp cận và yêu thích hình thức mua sắm trực tuyến. Xu thế mua sắm trực tuyến đang dần trở thành xu thế phổ biến trong dân cư, được lan rộng từ thành thị cho tới nông thôn, từ miền đồng bằng cho tới miền núi. Xúc tiến TMĐT đang dần trở thành trào lưu, các sản phẩm, hàng hóa không chỉ được giới thiệu, quảng bá trên các sàn TMĐT lớn mà còn cả những trang website của doanh nghiệp, cá nhân, cả nhà cung ứng, khách hàng, đối tác. Khoảng cách, không gian đã được thu hẹp, thay đổi mang lại sự tiện ích cho mọi đối tượng tham gia TMĐT.
Theo số liệu từ Sách trắng Thương mại điện tử Việt Nam năm 2021, giá trị mua sắm và số lượng người mua sắm, tham gia giao dịch thương mại trên trang TMĐT có sự phát triển theo từng năm, cụ thể, về số lượng người mua sắm trực tuyến trên các trang TMĐT tại Việt Nam năm 2020 đã tăng 1,5 lần so với năm 2016, tương ứng với đó lượng mua sắm bình quân đầu người năm 2020 cũng tăng lên 1,41 lần so với năm 2016 (Hình 2).
Theo thống kê chưa đầy đủ, sự tăng trưởng này tiếp tục được duy trì và có tính bứt phá tốc độ hơn khi tình hình dịch bệnh tại Việt Nam được khống chế và tình hình kinh doanh, thương mại trở về trạng thái bình thường.
Về loại hàng hóa giao dịch trên trang TMĐT: Theo Sách trắng Thương mại điện tử Việt Nam: Loại hình hàng hóa chủ yếu được mua nhiều nhất là: Thực phẩm (chiếm 52%); Quần áo, Giày dép và Mỹ phẩm (chiếm 43%); Thiết bị đồ dùng gia đình (chiếm 33%),… Phần lớn người được khảo sát (chiếm 63%) cho rằng lý do chính khiến họ quyết định lựa chọn website/ứng dụng để thực hiện giao dịch đến từ đánh giá từ những nguồn uy tín như bạn bè, người thân hoặc đánh giá trên mạng Internet (Hình 3).
Về phân đoạn thị trường: Thị trường TMĐT Việt Nam đang bị chi phối bởi các doanh nghiệp nước ngoài. Đáng chú ý, một số doanh nghiệp xuất phát điểm là doanh nghiệp Việt Nam nhưng khi thành công được nước ngoài mua lại hoặc do pháp nhân nước ngoài nắm cổ phần chi phối. Điển hình như sàn Tiki vốn là một sàn bản địa Việt Nam, đến cuối năm 2020 vốn ngoại tại sàn này đã chiếm gần 55% và đến năm 2021 sàn này chuyển 90,5% cổ phần cho pháp nhân Tiki Global của Singapore. Như vậy, Tiki đã trở thành doanh nghiệp Singapore. Tương tự, sàn Sendo xuất phát điểm là doanh nghiệp Việt Nam nhưng đến cuối năm 2020 vốn ngoại tại sàn này đã lên tới hơn 65%.
Như vậy, trong 4 sàn giao dịch TMĐT lớn nhất trên thị trường Việt Nam hiện nay, có 3 sàn giao dịch TMĐT có vốn đầu tư nước ngoài. Việc chi phối thị trường của các sàn TMĐT nước ngoài thể hiện qua số lượt truy cập. Theo số liệu tháng 2/2022, tổng số lượt truy cập trên Shopee là 78,5 triệu lượt, trên Lazada là 14,8 triệu lượt, trên Tiki là 14,1 triệu lượt và Chợ tốt (Việt Nam) là 12,7 triệu lượt. Trong bảng xếp hạng các ứng dụng di động (Android, iOS) mua sắm tại Việt Nam, Shopee cũng là ứng dụng được sử dụng nhiều nhất, xếp sau lần lượt là Lazada, Tiki.
Về chính sách pháp luật: Thời gian gần đây, Chính phủ đã ban hành một số điều luật mới nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, cụ thể theo quy định mới tại khoản 1 Điều 12 Nghị định số 85/2021/NĐ-CP, thông tin về hàng hóa, dịch vụ đối với website TMĐT bán hàng phải được người cung cấp chi tiết. Nỗ lực này nhằm giảm thiểu những hành vi lừa đảo, bán đồ trái phép trên các trang thương mại điện tử, tạo tâm lý an tâm cho người tiêu dùng. Tuy nhiên, trên thực tế, một số chế tài vẫn chưa đủ sức răn đe và nguy cơ thu thập thông tin trái phép trên mạng vẫn còn rất đáng kể.
Nhìn chung, tình hình phát triển TMĐT ở Việt Nam đã có những chuyển biến tích cực cả về quy mô, số lượng, chất lượng, cơ cấu với tốc độ tăng trưởng cao, góp phần thay đổi diện mạo kinh tế, xã hội đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực, TMĐT ở Việt Nam vẫn còn những hạn chế, cần được tiếp tục hoàn thiện.
Từ thực trạng phát triển TMĐT ở Việt Nam, để tiếp tục hoàn thiện và thúc đẩy sự phát triển TMĐT trong tương lai, theo tác giả, cần thực hiện tốt một số giải pháp chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, hoàn thiện khung pháp lý cho phát triển thương mại điện tử.
TMĐT là một lĩnh vực mới phát triển tại Việt Nam. Tính phức tạp của công nghệ cũng như tính giao thoa giữa thực và ảo là 2 yếu tố thách thức những nhà hoạch địch chính sách xây dựng bộ khung pháp lý phù hợp, chặt chẽ. Do đó, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về TMĐT, xây dựng hệ sinh thái cho TMĐT và kinh tế số là một nội dung quan trọng cần được xác định để định hướng phát triển TMĐT trong tương lai. Trước hết, các chính sách, pháp luật cần tạo ra hành lang pháp lý bảo đảm môi trường thuận lợi cho phát triển TMĐT, bảo đảm lợi ích hợp pháp, chính đáng cho các đối tượng tham gia TMĐT; tạo sân chơi, sự cạnh tranh lành mạnh, công bằng; phát huy được bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới, phù hợp với công ước, hiệp định, quy định về tự do thương mại mà Việt Nam là thành viên, tham gia ký kết; tăng cường quản lý nhà nước về TMĐT, chủ động phòng ngừa gian lận thương mại, các hành vi tiêu cực, lừa đảo khách hàng trong TMĐT; chống thất thoát thuế; khuyến khích sự sáng tạo, hỗ trợ các doanh nghiệp ứng dụng khoa học, công nghệ, kỹ thuật trong hoạt động TMĐT; tiếp tục cải cách, đổi mới nền hành chính, công vụ hướng tới tạo dựng nền hành chính “liêm chính, kiến tạo và phục vụ”, tạo môi trường kinh doanh lành mạnh thu hút đầu tư trong và ngoài nước.
Thứ hai, hoàn thiện hạ tầng công nghệ thông tin.
Để đảm bảo quyền lợi của người tiêu dùng về tính bảo mật thông tin, việc hoàn thiện, đồng bộ và nâng cao hạ tầng công nghệ là điều cần thiết. Hạ tầng công nghệ thông tin tốt, cụ thể là tốc độ đường truyền sẽ giúp các giao dịch trên TMĐT thông suốt, nhanh chóng và thuận tiện. Việc thực hiện này đòi hỏi sự nỗ lực của nhiều bên, các Bộ, ngành và địa phương mới có thể tạo nên một hạ tầng hoàn thiện, đồng bộ cho phát triển TMĐT trong tương lai. Tăng cường đầu tư công trong phát triển hạ tầng cơ sở hạ tầng phục vụ cho hoạt động TMĐT; khuyến khích, tạo điều kiện và hỗ trợ các doanh nghiệp chuyển đổi số, áp dụng công nghệ thông tin phục vụ cho hoạt động TMĐT, xây dựng hạ tầng cơ sở, công nghệ, kỹ thuật bảo đảm thích ứng với điều kiện phát triển của cuộc cách mạng công nghệ 4.0; quan tâm hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ; tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về TMĐT, xu hướng, sự cần thiết phát triển TMĐT gắn liền với chuyển đổi số, số hóa, trong đó, đặc biệt chú trọng phát triển đội ngũ nhân lực công nghệ thông tin; thường xuyên tiếp cận, cập nhật nền tảng công nghệ hiên đại, tiên tiến; Khuyến khích cải tiến, sáng tạo về công nghệ, kỹ thuật TMĐT; xây dựng các chính sách bảo hộ, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ đối với các phát minh, sáng chế, tác quyền công nghệ, sản phẩm.
Thứ ba, về phía doanh nghiệp, tích cực nâng cao cải thiện uy tín thương hiệu và chất lượng dịch vụ sau khi mua hàng.
Đối với các doanh nghiệp, việc đầu tư vào những hoạt động hậu mãi sau mua hàng trên TMĐT sẽ đóng vai trò quan trọng đến việc khách hàng có quay lại và đánh giá tốt sản phẩm của doanh nghiệp trên trang TMĐT hay không, từ đó thu hút thêm nhiều khách hàng mới từ những đánh giá tích cực của những khách hàng trung thành. Nếu có thể tăng tỷ lệ khách hàng trung thành, chắc chắn doanh nghiệp sẽ có thể tăng tỷ lệ chuyển đổi trong TMĐT.
Bài viết đã khái quát những khái niệm cơ bản về TMĐT, cũng như chỉ ra những thực trạng của TMĐT Việt Nam. Đây là một mô hình trao đổi, mua bán hàng hóa xuất hiện và phát triển tại Việt Nam vài năm gần đây. Đại dịch Covid-19 đã góp phần định hình thói quen mua sắm trực tuyến của người tiêu dùng. Tuy nhiên, vẫn còn có rào cản nhất định như tính bảo mật thông tin khiến người tiêu dùng còn e ngại khi mua bán những sản phẩm trên TMĐT. Về phía Chính phủ, việc tiếp tục cải tiến và hoàn thiện khung pháp lý cho TMĐT vẫn là hành động cần thiết, nhằm tạo một môi trường lành mạnh cho cả người mua và người bán trên môi trường số, bên cạnh đó là cải thiện hạ tầng công nghệ, góp phần giúp những giao dịch mua bán trên TMĐT thuận lợi và dễ dàng hơn. Về phía doanh nghiệp, cần quan tâm hơn đến những hoạt động chăm sóc khách hàng sau khi mua - bán trên các trang TMĐT để có thêm nhiều khách hàng trung thành giới thiệu những sản phẩm của doanh nghiệp đến những người xung quanh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
The current development and solutions for the growth of Vietnam’s ecommerce
Master. Le Phu Khanh
Lecturer, Faculty of Business Administration, Trade Union University
Abstract
In recent years, Vietnam's e-commerce market has expanded rapidly and e-commerce has become an increasingly popular business model in Vietnam. The diversity of operating models, participants, logistic and supply chains of goods and services, the support from the Internet infrastructure and the application of modern technology has made e-commerce become an important pillar in Vietnam’s digital economic development. However, Vietnam’s e-commerce is still facing many challenges and limitations to catch up with the world's e-commerce. This study is to analyze the current development of Vietnam’s e-commerce and propose some solutions to develop this business model.
Keywords: e-commerce, e-commerce market, business method, Vietnam.
[Tạp chí Công Thương - Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, Số 14 tháng 5 năm 2023]
Đề tài Nguồn vốn cho doanh nghiệp du lịch chuyển đổi số do ThS. Trần Thúy Nga (Trường Cao đẳng Du lịch Hà Nội) thực hiện.
Xem chi tiết(CHG) Ngày 14/11, tại Đà Nẵng, Cục kỹ thuật an toàn và Môi trường công nghiệp (Bộ Công Thương) phối hợp với Hiệp hội Công nghiệp môi trường Việt Nam tổ chức Hội nghị tập huấn “Nâng cao năng lực bảo vệ môi trường cho các cơ quan, doanh nghiệp khu vực miền Trung”.
Xem chi tiết(CHG) Ngày 14/11, Sở Công Thương phối hợp với Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ Logistics Việt Nam tổ chức Diễn đàn “Khu thương mại tự do Đà Nẵng - Động lực mới phát triển ngành logistics thành phố Đà Nẵng”.
Xem chi tiết(CHG) Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Long An đã có tân Bí thư Đảng ủy, Chính ủy Bộ Chỉ huy BĐBP tỉnh.
Xem chi tiếtBài báo nghiên cứu "Xu hướng tiêu dùng xanh trong phát triển bền vững tại Việt Nam" do TS. Nguyễn Thị Hạnh (Khoa Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, Trường Đại học Hải Phòng) thực hiện.
Xem chi tiết